Saturday, March 15, 2025
spot_img
Home Blog Page 18

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Lễ Thăng Thiên | Năm A

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN VII PHỤC SINH NĂM A

CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN

LỜI CHÚA: Mt 28, 16-20

Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

SUY NIỆM:

Giờ phút vinh quang đã đến, giờ phút được đánh đổi bằng việc vâng phục cho đến tự hủy: từ một Vì Thiên Chúa trở thành con người, từ một Đấng Cứu Độ trở thành tên tử tội, từ một người muốn đem đến hạnh phúc cho tất cả trở thành kẻ bị kết án phạm thượng và bất tuân…

Giờ phút trở lại tình trạng vinh quang vốn có của Thầy Giêsu đã thêm động lực cho các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Thầy mình, vì các ông đã chứng kiến tất cả nên mạng dạn làm chứng cho những điều mình biết; Giờ phút các môn đệ sống theo Thần Khí Sự Thật.

Trong giờ phút đó, các ông nhận lãnh lệnh truyền của Đấng Phục Sinh, Đấng chiến thắng: “Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”.

Vậy ra, sứ mạng của người môn đệ là sống mà làm chứng cho những gì mình đã sống.

Không thể nào làm chứng cho một lời gian dối đến mức phải bỏ mạng. Chỉ có sự thật mới dám thúc đẩy người ta hy sinh tất cả.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con xác tín niềm tin vào Đấng Phục Sinh để con có thể làm chứng cho Ngài trong chính cách sống của con.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Ga 16, 29-33

Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”. Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu muốn nói đến giờ Ngài phải bước lên thập giá. Đối với loài người đó là một sự thất bại ê chề. Còn với Chúa đó là giờ phút vinh quang, là niềm vui tột đỉnh, vì chính giờ phút đó “Con Người được tôn vinh”. Ai tôn vinh Chúa trong lúc này đây? Không ai hết mà là chính Chúa Cha: “Thầy không cô độc đâu vì Chúa Cha ở với Thầy” (Ga16,32b).

Chúa Giêsu nói điều đó để các môn đệ khỏi ngã lòng trước cái chết của Ngài. Đó cũng là tiên báo con đường mà các ông phải đi vì: “môn đệ không hơn thầy”. Tuy nhiên sau đó là một lời mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga16,33c).

Theo Chúa không phải là đi trên con đường nhung lụa nhưng đi trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi trên con đường thập giá vì chính Thầy Giêsu đã dùng con đường đó mà cứu độ nhân loại.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con ý thức được theo Chúa là con phải vác thập giá mỗi ngày. Nhất là cho con biết cần đến Chúa để luôn chạy đến với Chúa. Vì nếu không có Chúa con không làm gì được đâu. Amen.

THỨ BA

LỜI CHÚA: Ga 17, 1-11a

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.

“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.

“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha”.

SUY NIỆM:

Đoạn Tin Mừng hôm nay là khởi đầu cho Kinh Nguyện Tư Tế, là những lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong tư cách một tư tế. Lời cầu nguyện này có ba đối tượng Chúa Giêsu nhắm đến: Bản thân Ngài, các môn đệ và sau cùng là Giáo Hội của Ngài.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay là lời cầu nguyện cho chính Chúa và các môn đệ của Chúa. Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tôn vinh Ngài. Tôn vinh Ngài có nghĩa là làm cho người ta biết về Ngài nhiều hơn, mà biết về Ngài thì sẽ biết Thiên Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga14,9).

Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài điều gì? “Xin gìn giữ họ trong Danh Cha”(Ga17,11b). Danh của Chúa được người ta biết đến chính là tình yêu, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Vì vậy Chúa Giêsu xin Chúa Cha cho các môn đệ luôn nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và luôn biết sống tình yêu thương trong cuộc đời.

CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, xin cho con biết can trường vượt qua những cám dỗ ngày để có thể sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này.

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Ga 17, 11b-19

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.

“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý”.

SUY NIỆM:

Trước khi bước vào con đường tử nạn, tình yêu của Thầy Giêsu đã dành cách riêng cho các môn đệ và từ các môn đệ cho những kẻ tin vào Ngài: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha” (Ga17,11b).

Điều mà Chúa quan tâm là cho họ được hiệp nhất với nhau và từ đó hiệp thông với Chúa. Hay nói một cách ngắn gọn hơn là cho họ biết sống tình yêu thương với Chúa, với anh chị em của mình: “Lạy Cha, xin cho họ nên một như chúng ta” (Ga17,11b).

Chúa muốn các môn đệ của Chúa phải là những con người của tình yêu. Tình yêu nơi gia đình, nơi lối xóm, nơi công sở, trong họ đạo… Để nhờ tình yêu đó các môn đệ của Chúa có thể hiệp nhất với những người mà họ gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và luôn thao thức cho đời sống đức tin của con, vậy mà nhiều khi con đã quên lãng tình yêu đó. Vì không nhận ra tình yêu của Chúa nên con cũng không biết yêu thương những người xung quanh. Xin cho con biết yêu như Chúa đã yêu.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA : Ga 17, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.

SUY NIỆM :

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu hôm nay hướng đến Giáo Hội của Chúa. Giáo Hội là tất cả những người nhờ nghe lời rao giảng của các Tông Đồ mà tin vào Chúa: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con” (Ga17,20).

Qua lời cầu nguyện này chúng ta thấy được Chúa luôn luôn ở bên cạnh Giáo Hội, và Giáo Hội muốn là dân của Chúa thì cũng phải đi theo con đường của Đức Kitô: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga17,24).

Chính vì vậy điệp khúc đau khổ – vinh quang luôn vang lên trong lòng Giáo Hội. Những lúc Giáo Hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt là những lúc Giáo Hội vinh quang. Những lúc Giáo Hội bị khủng hoảng tứ bề là những lúc Giáo Hội đau khổ.

Trong mọi sự, Chúa Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện bên cạnh Giáo hội bằng những cách thức khác nhau.

CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho con thấy con đường mà Giáo Hội và chính bản thân con phải đi. Con đường đó không phải chỉ có thập giá, nhưng cũng có vinh quang để con không chán nản mà bỏ cuộc để con không thất vọng mà buông xuôi “Nhưng can đảm lên vì, vì Thầy đã thắng thế gian” (Ga16,33).

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 21, 15-19

Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.

Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.

Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.

SUY NIỆM:

Khác hẳn với một Phêrô nông nỗi, bộc trực, nóng tính… hôm nay ông như trầm hẵn xuống thể hiện một con người nội tâm sâu sắc, một con người vừa trãi qua một biến cố làm thay đổi lòng người. Từng lời nói của Chúa như rót vào tai ông, như mũi tên nhọn đâm vào trái tim ông, làm ông thêm thổn thức. Ba lần Chúa hỏi về lòng mến của ông dành cho Chúa, dường như Chúa muốn cho ông có dịp chuộc lại lỗi lầm vì ba lần chối Chúa. Mỗi lần cường độ của câu hỏi mạnh hơn thể hiện một sự dứt khoát: “Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga21,15). Đó là một bài trắc nghiệm để Chúa có thể trao trách nhiệm cho Phêrô. Muốn lãnh trách nhiệm thì phải có lòng mến. Vì Chúa muốn Phêrô thay mặt Ngài để lãnh đạo dân Chúa nên lòng mến của ông càng phải mạnh mẽ, vững vàng và nhiều hơn ngừơi khác.

Phêrô nhìn Chúa một cách chân thành, tha thiết. Ông gật đầu và thốt lên trong sự nghẹn ngào, lời nói đứt quãng đối lập với những lời chối Chúa mạnh mẽ: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga21,20). Thầy biết hết rồi, sao Thầy còn hỏi con làm chi.?

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, dù cuộc đời có giăng mắc những chông gai, dù tình đời có nhạt phai theo năm tháng, dù con người có phụ bạc hay lỗi nghĩa quên ơn, thì Chúa vẫn là Đấng trung thành. Điều quan trọng nhất là: “Hãy theo Thầy” (Ga21,19). Xin cho con biết trỗi dậy luôn luôn trong hành trình theo Chúa và phục vụ Nước Chúa.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 21, 20-25

Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi “Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?” Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Còn người này thì sao?” Chúa Giêsu đáp: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy”. Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: “Nó sẽ không chết”, mà Người chỉ nói: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con”.

Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.

SUY NIỆM:

Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa và đáp trả lại bằng những hành động cụ thể. Hành động cụ thể của tình yêu thương là: “Mến Chúa và Yêu Người”.

Mến Chúa là giữ những lời dạy bảo của Chúa, cụ thể qua việc tuân giữ những điều răn của Chúa. Yêu người là tôn trọng, giúp đỡ và không làm hại ai. Tình yêu thương đó lan tỏa ra trong cuộc sống, để những ai tiếp xúc với người môn đệ có thể cảm nhận được sự bình an, thanh thản và niềm vui.

Chính cách sống yêu thương của người môn đệ sẽ là lời chứng về Chúa một cách đắc lực nhất. Kitô không cần rao giảng những mầu nhiệm cao siêu về Chúa, nhưng họ chỉ cần minh chứng về một Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống đơn giản của mình.

Những cảm nghiệm về một Thiên Chúa yêu thương không thể giữ lại cho riêng cõi lòng mình, mà còn phải được san sẻ cho nhiều người bằng nhiều cách, tùy theo khả năng mọi người.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và sống tình yêu đó một cách cụ thể trong cuộc sống của con.

Hạt giống nảy mầm | Tuần VI | Phục sinh

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH

Ga 14,15-21

A. Hạt giống…

Đoạn Tin Mừng này là một phần của diễn từ giã biệt Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài trước khi ra đi chịu chết, gồm 2 ý chính :

– Nếu anh em yêu mến Thầy thì hãy tuân giữ các điều răn của Thầy.

– Thầy không để anh em mồ côi, nhưng Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đó là Thần khí Sự thật.

B. … nảy mầm.

1. Khi hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã bảo : “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận”. 

Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng Bảo Trợ luôn ở bên cạnh chúng ta, nhưng nếu ta đối xử với Người như “thế gian” thì ta không thể đón nhận người. Còn nếu muốn nhận được Người thì ta phải cư xử như “môn đệ”. Ở những chỗ khác trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã dạy rõ cách cư xử ấy. Muốn được đón nhận sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, ta phải :

– Ôn đi ôn lại những lời Chúa Giêsu dạy, bởi vì Chúa Thánh Thần là Đấng giúp chúng ta hiểu sự thật toàn vẹn của những lời Chúa Giêsu đã dạy (x Ga 16,12-15.26).

– Có thiện chí đi tìm sự thật chứ không phải chỉ đi tìm những gì mình thích, bởi vì Chúa Thánh Thần chính là Thần Khí Sự Thật.

– Chúa Thánh Thần được ban cho Giáo Hội, do đó phải tìm Ngài trong Giáo Hội, nghĩa là trong nếp sống hiệp nhất cộng đoàn, bằng sống chung, chia sẻ, tương thân tương trợ…dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội.

2. “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. (c 21)

Có một huyền thoại kể rằng ngày kia một vị thiên thần rảo khắp đường phố, một tay cầm một ngọn đuốc còn tay kia xách một thùng nước. Người đi đường lấy làm lạ hỏi thì thiên thần giải thích : “Với ngọn đuốc này, ta sẽ thiêu rụi hết những tòa nhà trên thiên đàng ; còn với thùng nước này, ta sẽ dập tắt hết mọi đám lửa dưới hỏa ngục”. Người ta càng ngạc nhiên hơn nữa và hỏi tại sao. Thiên thần giải thích : nhờ đó mà Thiên Chúa sẽ biết những ai yêu mến Ngài thật, chứ không phải chỉ sống tốt vì ham phần thưởng thiên đàng hoặc vì sợ hình phạt hỏa ngục.

3. “Bàn tay không thể mở ra để nhận điều gì mà con tìm không ước muốn”. (Tục ngữ Đức)

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần VI | Phục sinh | Năm A

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN VI PHỤC SINH NĂM A

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Ga 14, 15-21

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó”.

SUY NIỆM:

Trước khi từ giã các môn đệ về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông rất kỹ lưỡng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”. Như một lời trăn trối, như một kiểu bộc bạch tận đáy lòng, nhưng nhất là tất cả yêu thương để lại cho các môn đệ của mình: “Hãy giữ giới răn Thầy”.

Nếu còn lòng mến với Thầy thì chắc chắn môn đệ sẽ không bao giờ quên lời Thầy mà lo tuân giữ giới răn của Thầy. Về phần Thầy là Đấng Phục Sinh, đã nắm giữ mọi quyền năng trên trời dưới đất, chỉ cần các môn đệ nhớ và giữ lời Thầy, còn mọi sự cứ để Thầy lo.

Sự lo lắng của Thầy là định liệu để Thần Chân Lý sẽ hoạt động thay Thầy cho các môn đệ. Tác động của Thần Chân Lý sẽ phù hợp với thời đại hậu Phục Sinh để giúp Tin mừng cứu độ được lan tỏa khắp nơi bằng một đời sống thánh thiện, yêu thương nhờ biết tuân giữ lời Thầy.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết nghe theo sự hướng dẫn của Thần Chân Lý để có thể yêu mến và tuân giữ lời Chúa cách tận tình hơn.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Ga 15, 26 _ 16, 4

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con”.

SUY NIỆM:

Muốn làm chứng cho Đức Kitô, các môn đệ của Ngài phải có 3 yếu tố sau đây:

Trước hết, họ phải là những người “Ở với Đức Kitô”. Đây là một trong hai tiêu chuẩn để các Tông Đồ chọn người bổ sung vào nhóm 12 thay thế cho Giuđa. Đây cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất để chúng ta có thể làm chứng về Đức Kitô. Quả thật nếu không “ở với Đức Kitô”, nghĩa là không có sự hiệp thông với Ngài thì người môn đệ không biết gì về Ngài. Mà nếu không biết gì về Đức Kitô thì làm sao có thể làm chứng? Chứng nhân là người xác nhận: “Điều này đúng, tôi biết chắc như vậy!”

Kế đến, người ta đòi hỏi nơi người làm chứng phải có niềm tin. Nếu chúng ta biết một người, nhưng chúng ta không tin tưởng người đó thì chắc chắn chúng ta cũng không muốn cho nhiều người biết đến người đó, vì người đó không có gì hấp dẫn. Người môn đệ phải có niềm tin vào Đức Kitô, rằng Ngài đax đem đến cho họ hạnh phúc, thì mới có thể làm chứng cho Ngài được.

Sau cùng, lời chứng đó phải được bày tỏ ra. Niềm vui, hạnh phúc không thể chất chứa trong lòng, mà còn phải muốn cho nhiều người cũng được niềm vui, hạnh phúc đó. Vì vậy người ta đòi hỏi nơi chứng nhân khả năng để có thể bày tỏ ra bên ngoài điều mình xác tín.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, sứ mạng của chúng con là làm chứng nhân cho Chúa. Khi chúng con làm chứng cho Chúa, chúng con được làm việc cùng với Chúa Thánh Thần, vì Chúa thánh Thần cũng sẽ làm cho nhiều người biết Chúa. Xin cho chúng con ý thức sứ mạng cao cả, thánh thiêng của mình để chúng con tìm nhiều thời gian hơn gặp gỡ Chúa; tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa ban; và mạnh dạn thông truyền niềm vui đó cho mọi người. 

THỨ BA

LỜI CHÚA: Ga 16, 5b-11

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu. Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con. Khi Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”.  

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu cho các ông thấy vai trò quan trọng của Đấng Bảo Trợ. Nhưng Đấng Bảo Trợ là ai? Ngài sẽ làm gì để khỏa lấp nỗi trống vắng trong lòng các môn đệ? Công việc của Ngài như thế nào khiến Chúa Giêsu đề cao vai trò của Ngài?

Đấng Bảo Trợ chính là Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Ở đây Gioan dùng động từ Elegchein để chỉ hoạt động của Ngài. Nó có nghĩa là một cuộc thẩm vấn, điều tra cho đến khi một người chấp nhận điều mà họ cố tình chối bỏ, hoặc trốn tránh từ trước tới giờ, hay một sự thật mà họ chưa được biết. Trong việc thẩm vấn này, nó buộc một người nhìn nhận tội lỗi cũng như nhược điểm của mình, đồng thời nhìn nhận những điều tốt nơi người khác. Nói ngắn gọn lại, Chúa Thánh Thần sẽ “Elegchein”, tức là trách cứ và thuyết phục con người.

Ngài trách cứ con người về tội lỗi. Chúa Thánh Thần làm cho con người nhận ra tội lỗi của mình. Quả thật, nhiều khi con người hành động sai trái mà không nghĩ rằng mình sai, ngược lại họ còn tưởng mình đang hành động cho công lý, cho sự thật, đang bênh vực Thiên Chúa. Ví dụ trong buôn bán, người ta gian lận chút ít để lấy tiền làm việc thiện. Thấy người khác xúc phạm đến những người tu hành, chúng ta không ngần ngại chửi mắng xối xả, nói là đang bảo vệ “người của Chúa”… Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi tâm hồn mỗi người, khiến chúng ta tự tố cáo về tội lỗi của mình.

Chúa Thánh Thần sẽ thuyết phục con người về sự công chính. Ai sẽ làm cho nhân loại nhận ra một tử tội là Thiên Chúa? Điều này con người không thể chấp nhận được. Ấy vậy mà dưới chân thập giá, tên đại đội trưởng đã thốt lên: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa”. Hay như Phaolô đang lùng bắt Chúa Giêsu cũng đã phải khuất phục trước sức mạnh của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần đã thuyết phục con người để họ nên công chính nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô bị treo trên thập giá.

Chúa Thánh Thần thuyết phục con người về sự phán xét. Nghĩa là con người tin rằng ai cũng sẽ lãnh lấy hậu quả từ những việc họ làm; hậu quả tốt hay xấu là tùy vào hành động tốt hay xấu của họ.

Nói tóm lại,với hành động “Elegchein”, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta không thể yên vì những tội của mình. Nhưng Ngài cũng sẽ tác động để chúng ta biết đón nhận những điều tốt mà Đức Giêsu đang mời gọi chúng ta.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con biết rèn luyện lương tâm của mình chon ngay thẳng để luôn lắng nghe và làm theo tác động của Thánh Thần.

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Ga 16, 12-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.  

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy vai trò của Chúa Thánh Thần là “Thần Chân Lý”, nghĩa là Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự nhận biết Thiên Chúa ngày càng rõ ràng hơn.

Chúa Giêsu là Ngôi Lời, tại sao Ngài không nói hết với con người? Muốn truyền đạt điều gì, người thầy phải khởi đi từ những điều căn bản, nhưng phải dễ hiểu. Và cũng tùy thuộc vào mỗi học trò, có người tiếp thu nhanh, có người chậm; có người nói bóng gió là hiểu liền, nhưng có người phải rõ ràng; có người nói chung thì hiểu tất cả, nhưng có người phải nói riêng từng điều một…

Sự mặc khải của Thiên Chúa trong mỗi cuộc đời chúng ta cũng theo định luật tiệm tiến như vậy. Sẽ có người cảm thấy mình chưa biết Chúa nhiều lắm, nhưng có người cảm thấy Chúa luôn luôn ở bên mình. Sẽ có người đủ sức mạnh để vượt qua những cám dỗ, thử thách vì họ thấy Chúa đang ở phía trước, nhưng sẽ có người dễ dàng sa chước cám dỗ vì họ chưa nhìn ra phía trước là gì…

Điều quan trọng là chúng ta hãy luôn luôn đặt mình dưới ngọn gió của Thánh Thần, để Ngài “muốn thổi đâu thì thổi”. Chúng ta luôn tin tưởng, vững tâm bước đi trên con đường của Thánh Thần. Đừng bao giờ bỏ cuộc. Hãy biết rằng Chúa Thánh Thần sẽ bẻ cho thẳng lại đường cong của cuộc đời chúng ta, “Ngài có thể vẽ đường thẳng trên nhưng đường cong”.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, sức lực và khả năng của con có hạn. Nhưng Chúa vẫn yêu thương và ban ơn trợ giúp tùy theo sự đón nhận của con. Chúa sẽ từ từ đưa con vào con đường tình yêu, con đường kết hiệp với Chúa. Xin cho con đừng bao giờ cứng đầu, cứng cổ, khép mình lại. Nhưng xin cho con dù như thế nào cũng biết mở lòng để Chúa Thánh Thần tác động và dẫn con đến gần Chúa hơn.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Ga 16, 16-20

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha”. 

Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: “Điều Người nói với chúng ta: ‘Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy’, và ‘Vì Thầy về cùng Cha’, như thế có ý nghĩa gì?” Họ nói: “Lời Người nói ‘Một ít nữa’ có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?” 

Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: “Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”.  

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu nói với các môn đệ về khoảng thời gian giao thời giữa hiện tại và tương lai mà Ngài gọi là “ít lâu nữa”. Người Do Thái quan niệm thời hiện tại là thời xấu, còn thời tương lai là thời tốt, thời của Chúa. Nhưng để bước vào thời tương lai đó người ta phải trải qua “ngày của Chúa”, ngày tất cả mọi sự sẽ sụp đổ để thay thế bằng một thế giới mới .

Quan niệm đó được diễn tả bằng hình ảnh người mẹ phải trãi qua cơn đau đớn khủng khiếp để sinh ra đứa con. Khi đứa con ra đời là niềm hạnh phúc cho người mẹ, khiến bà không còn nhớ gì đến cơn đau mình.

Chúa Giêsu đã phác họa bức tranh của đời sống đức tin cho các môn đệ. Trước hết Ngài cảnh báo họ: “Anh em sẽ than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 20). Nghĩa là người môn đệ Chúa sẽ phải gặp gian nan thử thách, nhưng họ đừng để mình gục ngã. Đó chỉ là “ngày khủng khiếp”, là “cơn đau đẻ” của người mẹ trước khi họ bước vào hạnh phúc viên mãn, trước khi họ có được niềm vui từ đứa con mới sinh.

Tuy nhiên chân lý mà Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ là họ không bao giờ đơn độc, vì chính Ngài đã đi con đường thập giá trước các ông. Trong cuộc hành trình của mình, người môn đệ có Chúa cùng đồng hành để những lúc họ đi không nổi, Chúa sẽ dìu dắt họ; những lúc họ quỵ ngã, Chúa sẽ vác họ trên vai; những lúc họ cô đơn, Chúa sẽ cùng đồng hành với họ… Biết như vậy để người môn đệ luôn dõi nhìn về tương lai tươi đẹp phía trước và vững bước trong hiện tại để vượt qua “ngày khủng khiếp”, vượt qua “cơn đau đẻ”.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết rằng Chúa đã ở bên con, đang ở bên con để cùng đồng hành với con, dẫn con về nơi mà con sẽ mãi mãi ở bên Chúa. Chúa là nguồn vui, là động lực để con bước đi.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 16, 20-23a

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa”.  

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy niềm vui sâu xa của người Kitô hữu: “Lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của nanh em sẽ không ai lấy mất được” (Ga 16, 22).

Trước hết sự vui mừng của người môn đệ Chúa Giêsu sẽ không ai lấy mất được. Bởi vì niềm vui này không lệ thuộc vào niềm vui của thế gian. Kinh nghiệm cho thấy ngay cả trong những lúc đau khổ, người ta vẫn có được niềm vui và hạnh phúc. Trong bối cảnh xã hội chúng ta, những người lớn tuổi đều có chung một kinh nghiệm: “Thời buổi khó khăn vậy mà vui hơn bây giờ. Đó là một giai đoạn sống vô cùng hạnh phúc”. Bởi vì đơn giản niềm vui của người Kitô hữu không lệ thuộc vào những thứ hời hợt ở bên ngoài, mà niềm vui của người Kitô hữu lệ thuộc vào biến cố Chúa đã Phục Sinh. Đâu ai có thể làm cho Chúa chết nữa, vì vậy niềm vui của chúng ta sẽ là vĩnh viễn.

Kế đến, niềm vui của chúng ta là một niềm vui trọn vẹn. Trong tất cả mọi niềm vui, hạnh phúc ở trần gian này luôn có một cái gì đó khiến nó không trọn vẹn. Ở bên cạnh người yêu chúng ta hạnh phúc, nhưng sợ sẽ mất người yêu. Giàu có làm cho chúng ta vui, hạnh phúc, nhưng luôn sợ găp thất bại trong làm ăn, sợ mất tiền… Còn niềm vui của người Kitô hữu là sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, là được sống với Ngài.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết tìm kiếm niềm vui đích thực là niềm vui ơn cứu độ mà Chúa đã đổ máu ra để chuộc lấy cho chúng con. Xin cho con luôn ở bên Chúa để niềm vui của con sẽ không bị ai lấy mất.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 16, 23b-28 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây giờ, các con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con. Đã đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha”.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu bảo đảm với các môn đệ: “Anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em, nhân danh Thầy” (Ga 16, 23b). Đây là kết quả tất yếu trong mối liên hệ cha con giữa Thiên Chúa và con người. Khi con người đã thật sự biết Chúa là Cha yêu thương, họ sẽ đến với Ngài trong tất cả mọi cảnh huống của cuộc đời, họ sẽ trình bày với Ngài bất cứ điều gì. Tại sao vậy? Vì họ biết Cha luôn yêu thương mình. Cũng như đứa bé biết cha nó rất vui khi gặp nó, nên nó sẽ đến nói đủ thứ chuyện với cha, nhiều khi chỉ là những chuyện đâu đâu, vì điều chính yếu không phải là nội dung câu chuyện, mà là được ở bên cha nó, được nói cho cha nó nghe.

Chúa Giêsu muốn chúng ta có mối liên hệ với Chúa Cha như vậy, có thể nói với Ngài bất cứ chuyện gì. Nhiều khi chúng ta phân vân không biết Cha có cho mình điều này không? Cứ trình bày, cứ nói. Giả dụ Ngài nói không là vì Ngài có tình yêu và hiểu biết hơn chúng ta. Chúng ta nói với Chúa tất cả, nhưng sau cùng vẫn luôn luôn là: “Một theo ý Cha”.

Nhiều khi con người sợ hãi trước sự thánh thiện của Chúa, không dám đến với Chúa vì thấy mình tội lỗi quá, nhưng Thiên Chúa lại muốn sửa dạy để con người tốt lành hơn chứ không bao giờ Ngài muốn họ phải chết vì tội của họ.

Con người chỉ đến với Chúa khi họ có nhu cầu vượt quá sức của mình, ví dụ bệnh tật, tai ương… Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng, mà Ngài còn là người Cha nhân lành, Người Cha chăm sóc cho con cái mình mọi sự chứ không phải chỉ là những việc vượt quá sức con người. Người Cha này muốn được gần gũi con cái mình.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con luôn có lòng khao khát có Chúa bên cạnh mình, để tìm mọi dịp, mọi cách, mọi cơ hội được gần gũi với Chúa. Gần Chúa đơn giản chỉ để con hạnh phúc, và lúc đó chắc chắn Chúa cũng rất vui.

Hạt giống nảy mầm | Tuần IV | Phục sinh

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH

Ga 14,1-12

A. Hạt giống…

Bài Tin Mừng chứa hai mặc khải :

1. Chúa Giêsu là đường : Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đang nói cho các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết. Ngài báo cho họ biết Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi mà họ rất lạ. Nhưng Ngài hứa sẽ trở lại đón họ để cũng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi : “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi ?” Chúa Giêsu đáp : “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nghĩa là : mục tiêu cuộc hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha ; Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường dẫn ta đến đó.

2. Chúa Giêsu là mặc khải của Chúa Cha : Philipphê xin : “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu đáp : “Ai Thấy Thầy là xem thấy Cha”.

B. … nảy mầm.

1. “Sinh ký, tử quy”, sống là gởi, chết là về. Đời này không phải là quê hương mà chỉ là nơi chúng ta gởi thân trong một khoảng thời gian nào đó. Khi chết, chúng ta sẽ về quê hương thật. Đó là chân lý. Nhưng nhiều người quên hẳn chân lý đó, họ sống ở trần gian như là đang ở quê hương vĩnh viễn, không hề nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái “ký túc xá” này, không hề nghĩ tới nơi mình sẽ về.

2. Một người nói chuyện với bạn là một Kitô hữu già cả : “Tôi sợ rằng anh gần đất xa trời rồi !” Người kia nhẹ nhàng đáp : “Tôi biết chứ, nhưng nhân danh Chúa, tôi không sợ, mà tôi còn đặt hy vọng vào đó”. (Góp nhặt) 

3. Sống là hành trình. Mà hành trình thì phải hướng đến một điểm tới. Trong cuộc hành trình tới một nơi tôi chưa từng biết, nếu tôi tự hướng dẫn thì dễ lạc đường ; tôi đi theo sự hướng dẫn của người khác thì có thể khá hơn ; nhưng không gì bảo đảm bằng hành trình theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu : “Không ai lên trời được ngoại trừ Con Người Đấng đã từ trời xuống”. (Ga 1,13)

4. Lạy Chúa, nhiều khi con lo lắng về tương lai, không biết đời con sẽ về đâu. Chúa bảo “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tương lai, hãy để Chúa dẫn dắt. Chúa dẫn con dần đến cái chết, không, đúng hơn là Chúa dẫn con ngày càng tới gần với Chúa Cha. Chúa dạy con hằng ngày sống như Con của Cha và như anh em của mọi người. Đó là con đường mà nếu con đi thì chắc chắn con sẽ đến Nhà Cha trên trời.

5. Một Kitô hữu già cả sắp chết. Một người đến nói: 

– Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé !

– Vâng.

– “Trong nhà Cha có nhiều chỗ… Ta đi dọn chỗ cho các con”.

– Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất. Đọc tiếp đi.

– “…Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu các con cũng ở đó với Ta”.

– Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa. (Góp nhặt) 

6. Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi tín hữu. Chúa Giêsu đáp ứng ước vọng đó : “Ai Thấy Thầy là xem thấy Cha”. Nhìn Chúa Giêsu, ta có thể biết Chúa Cha như thế nào : nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với kẻ tội lỗi… Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.

7. “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”. Chúa Giêsu nói tới sức mạnh và năng lực kỳ diệu Ngài sẽ ban cho kẻ tin vào Ngài. Các vị Thánh đã tin và đã làm được những phép lạ như Chúa Giêsu. Tôi có tin không ?

8. “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy. Chính Người làm những việc của mình”. (Ga 14,10)

Có một vị ẩn sĩ sống rất khiêm tốn và khó nghèo. Ngày kia, một thiên thần đến nói với Ngài : “Chúa sai tôi đến gặp ngài, ngài có thể xin bất cứ điều gì ngài muốn. Vậy, ngài có muốn được ơn chữa bệnh không ?” Vị ẩn sĩ trả lời : “Không, thà để chính Chúa chữa trị thì tốt hơn”. Thiên thần lại đề nghị : “Hay ngài có muốn trở thành mẫu gương để người khác nhìn vào mà sống tốt hơn không ?”. Ẩn sĩ khiêm tốn nói : “Không, bởi như thế, tôi sẽ trở thành trung tâm của sự chú ý”.

Cuối cùng thiên thần nói : “Ít nhất ngài nên xin một điều gì đó, vì Chúa muốn thế”. 

– “Vâng, tôi xin điều này : xin cho mọi việc thiện được thực hiện qua tôi mà tôi không hề hay biết”. 

Thế là lời ước của ẩn sĩ thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng của ngài có được mọi thứ quyền năng. Nơi nào có bóng ngài đi qua người bệnh được khỏi, niềm vui thay cho sầu khổ và đất đai trở nên phì nhiêu. Nhưng ẩn sĩ không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chỉ chú ý tới cái bóng đến độ quên hẳn ngài.

Xin cho biết sống như Thánh Gioan Tẩy Giả “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. (Epphata) 

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần V | Phục sinh | Năm A

CHÚA NHẬT TUẦN V PHỤC SINH NĂM A

LỜI CHÚA: Ga 14, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người”. Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha’? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”.     

SUY NIỆM:

Xao xuyến, băn khoăn là tâm trạng tự nhiên của con người trước khó khăn, bệnh tật, nghèo đói, nghịch cảnh… Nhưng Đấng Phục Sinh đã kêu gọi: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Ngài  để làm gì khi con người ta đang gặp những bất trắc vượt tầm giải quyết?

Thưa tin vào Đấng Phục sinh vì : “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Như vậy “ở trong Cha” sẽ là hạnh phúc lớn nhất của con người.

Mà muốn “ở trong Cha” thì phải bước đi theo Con là Đức Giêsu, Đấng Phục Sinh, vì Ngài “là đường là sự thật và là sự sống”.

Bước đi theo Đấng Phục Sinh là bước đi trong ánh sáng, vì Ngài là ánh sáng dẫn đường ta đi.

Bước đi theo Đấng Phục Sinh là và lấy thập giá mỗi ngày, vì thập giá là phương thế để thanh luyện những đau khổ của co người.

Bước di theo Đấng Phục Sinh là sống yêu thương, phục vụ như Ngài đã nêu gương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con chọn con đường Giêsu làm lý tưởng cho cuộc đời mình và chấp nhận tất cả để bước đi trên con đường đó.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Ga 14, 21-26

“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.

Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

SUY NIỆM:

“Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.

Điều nhận thấy rõ ràng nhất nơi môn đệ của Đức Giêsu là biết sống theo lời của Ngài. Lời đó được cụ thể hóa trong cung cách sống tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và yêu thương phục vụ mọi người, vì tất cả những lời Thánh Kinh đều là mặc khải cho nhân loại về Thiên Chúa, và cách sống để được trở nên con Thiên Chúa.

Một đời sống không nao núng trước sự dữ, không lo âu sợ hãi trước hiểm nguy, không chồn chân lui bước trước nghịch cảnh… Điều đó là kết quả của một niềm tin: Đức Giêsu đã Phục Sinh.

Một đời sống quan tâm phục vụ mọi người trong tính cách và ơn ban mà Chúa đã dành riêng cho mỗi người để mưu cầu hạnh phúc cho người khác… là kết quả của việc được Thánh Thần thôi thúc để trở nên giống Đức Giêsu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con đừng nói yêu mến Chúa trên môi miệng, nhưng xin cho con biết sống điều con tin, và dạy người khác điều con xác quyết.

THỨ BA

LỜI CHÚA: Ga14, 27-31 a

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy”.  

SUY NIỆM

 “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”

Bình an của Đấng Phục Sinh khác với bình an của thế gian. Thế gian tìm kiếm bình an là không gặp sóng gió, không gặp những bất trắc, cầu sao được vậy, muốn gì được nấy… Còn bình an của Đấng Phục Sinh phải trãi qua thập giá. Bình an đó là một niềm cậy trông vững vàng dù đang gặp bất cứ điều gì trong cuộc sống, với một niềm xác tín: Chúa đã phục sinh.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến bình an của Chúa bằng những hoa quả của mầu nhiệm Phục sinh là các Bí tích, nhất là Bí tích Giải tội và Bí tích Thánh Thể, để con được bình an thực sự trong tâm hồn.

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Ga15,1-8

“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.

“Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi.

“Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được. Ðây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy”.

SUY NIỆM

Chúa nói thật rõ ràng: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga15,5). Điều này cho con biết rằng cuộc đời con là của Chúa, là thuộc về Chúa. Cây có thể không có cành, nhưng cành không thể thiếu cây. Cây vẫn sống, vẫn sừng sững vươn lên khi bị người ta chặt hết cành, nhưng cành nào bị chặt khỏi thân cây đều phải khô héo và chết đi.

Chúa còn nói: “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi” (Ga15,2). Chúa muốn con chẳng những thuộc về Chúa, mà còn phải thể hiện những hoa quả cụ thể của việc thuộc về Chúa nữa.

Một sự thật không thể phủ nhận mà nhiều khi con quên lãng là con không thể nào sống thiếu Chúa. Chính sự quên lãng này làm cho con nghĩ rằng tự bản thân con có thể tồn tại được, tự bản thân con là một thân cây độc lập… Vì vậy con có thể làm bất cứ những gì con thích thú, những gì có thể đem đến lợi ích cho con, và những gì làm cho con tồn tại.

Chẳng những gắn bó với thân cây, mà cành cây còn phải trổ sinh hoa trái. Con thuộc về Chúa, nhưng hương thơm đời sống đạo đức của con còn phải được tỏa lan nữa.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, ngày hôm nay con sẽ ý thức hai điều đó. Thứ nhất: con thuộc về Chúa. Thứ hai: đời sống của con là hoa trái do việc sống với Chúa và cho mọi người.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Ga15,9-11

“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn”.

SUY NIỆM

Lời Chúa hôm nay trước hết cho con biết một sự thật rằng: Đức Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và con người: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga15,9) ; “Anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy” (Ga15,10).

Sự thật thứ hai là Thiên Chúa không phải là Đấng nói bằng miệng, mà là Đấng hành động cụ thể nơi Đức Kitô.

Và cuối cùng, muốn ở lại trong tình thương của Chúa như cành nho nối liền với thân nho, thì con phải giữ lời Đức Kitô.

Từ ba sự thật đó cho con những hành động cụ thể sau đây:

Trước hết tin nhận Đức Kitô bằng cách đi theo con đường Ngài chỉ vẽ.

Và thứ hai, thực ra đi theo con đường của Đức Kitô không phải là hành trình đơn độc vì chính Đức Kitô đã nêu gương trước điều đó và đang sống với con. Con sống với Đức Kitô giống như Đức Kitô sống với Chúa Cha. Con giữ lời Đức Kitô cũng giống như Đức Kitô giữ lời Chúa Cha.

Và cuối cùng để thể hiện niềm tin vào Đức Kitô, con phải giữ lời Ngài, khi giữ lời Ngài là biểu lộ tình yêu mến của con với Ngài. Đối với con, việc tin và yêu chỉ là một. Tin là yêu và yêu là tin.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì đã thể hiện tình yêu một cách cụ thể nơi Đức Kitô, để từ nay con không cảm thấy đơn độc trên đường đời, mà con có đức Kitô luôn đồng hành trong cuộc sống.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 15, 12-17

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”.   

SUY NIỆM

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv118,105). Những lời của Chúa nói hôm nay còn đặc biệt hơn nữa, vì được nói trong bối cảnh của người ra đi.

Lời của một người trước lúc ra đi thì hết sức chân thành, là điều tận đáy lòng họ muốn truyền đạt cho những người ở lại, là tâm huyết cả đời muốn để lại cho thế hệ mai sau. Lạy Chúa, con xin cúi đầu lắng nghe lời Chúa dạy.

Khởi đầu và kết thúc những lời trăn trối hôm nay, điều duy nhất Chúa muốn gửi đến các môn đệ là: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga15,12); “Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau” (Ga15,17). Vì vậy “yêu thương nhau” là sứ điệp lời Chúa muốn gởi đến cho con hôm nay.

Yêu thương là điều rất quen thuộc. Quen thuộc vì con được nghe nhắc tới nhắc lui hoài. Quen thuộc vì con biết đây là điều căn bản trong đạo Chúa. Quen thuộc vì con vẫn thường xuyên dạy người khác điều đó… Nhưng thử hỏi, con đã sống giới răn yêu thương này như thế nào? Hơn nữa yêu thương đây là điều răn mới chứ không phải yêu thương theo luật cũ, theo lối tự nhiên, theo cảm tính của con người; yêu thương mà Chúa muốn dạy con là sự yêu thương Chúa đã làm gương trước: quan tâm đến người nghèo, người tội lỗi, người bệnh tật… những con người ít được quan tâm.  Hành động yêu thương đó được thể hiện cụ thể qua việc quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, và nhất là cái chết thảm thương trên thập giá.

CẦU NGUYỆN:

Lay Chúa, xin cho con cảm nghiệm để tập sống điều quý giá nhất Chúa để lại cho chúng con, đó là giới luật yêu thương.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 15, 18-21

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời các con. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Đấng đã sai Thầy”.  

SUY NIỆM

Bài Phúc Âm hôm nay cho con biết theo Chúa là con phải chấp nhận những khó khăn, những thử thách, những đau thương trong cuộc đời.

Con an tâm và không còn hoang mang lo sợ nữa vì Chúa Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá. Con là môn đệ của Ngài thì đương nhiên con cũng phải bước đi trên con đường của Thầy mình.  Không phải bước đi trong tuyệt vọng, trong mù tối, nhưng trong hy vọng và dưới ánh sáng của Chúa, vì Chúa “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga14,6). Chúa đã dùng thập giá mà cứu độ con, thì con cũng phải “vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa”. 

Thập giá mỗi ngày chính là cách sống đối nghịch lại với thế gian. Con hiểu thế gian là thế lực chống lại Thiên Chúa chứ không phải cuộc đời con đang sống. Cuộc đời là con đường để con đi về với Chúa. Thế gian là những tảng đá cản lối con đi, nhưng có khi là những bông hoa đẹp khiến con mãi mê ngắm nhìn mà quên đường về. Thế gian là gai nhọn khiến bàn chân con đau nhức mà không đủ sức bước đi, nhưng cũng có khi là thảm đỏ trãi lấp lối về, để con tưởng rằng thảm đỏ là thiên đàng tại thế. Thế gian là thung lũng khiến con hụt chân không còn bước đi, nhưng cũng có khi là mặc cảm tự ti khiến con khép mình lại. Thế gian là núi cao che khuất thiên đàng, nhưng cũng có khi là mặc cảm tự tôn khiến con tưởng rằng mình là tất cả…

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, Chúa không xin Chúa Cha cho con ra khỏi thế gian, nhưng xin Chúa Cha cho con sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian này. Xin cho con “lòng ái mộ những sự cao siêu trên trời”, để con tuy sống giữa thế gian này nhưng không thuộc về thế gian này.

Hạt giống nảy mầm | Tuần IV | Phục sinh

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

Ga 10,1-10

A. Hạt giống…

Đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên :

– “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp” : Chúa Giêsu ám chỉ những người Biệt phái và Luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ dành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải để mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.

– “Ta là cửa chuồng chiên” : Chúa Giêsu là mục tử đích thực của dân. Ngài đi vào đàng hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn…

B. … nảy mầm.

1. Ngày hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành. Những lời Chúa Giêsu tự mô tả mình là mục tử tốt lành gợi cho chúng ta hai tâm tình :

a/ Vui vì được sống dưới sự dẫn dắt, chăm sóc và che chở của Chúa.

b/ Cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, tu sĩ.

2. Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa cao vời xa cách, mà là một Thiên Chúa rất gần gũi yêu thương, như một mục tử sống sát với đàn chiên, hiểu biết, yêu thương, chăm sóc từng con chiên một… Giả như tôi có là một con chiên yếu đau, què quặt, Chúa đã biết và vẫn thương tôi, hơn nữa còn chăm sóc tôi đặc biệt hơn những chiên khác. Vì thế tôi nên phó thác sống theo sự dẫn dắt của Ngài.

3. Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết : một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi : “Đó là trại cừu, kia là bầy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?” Người mục tử hỏi lại : “Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”. Thế đó, Đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình : Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào. (Góp nhặt) 

4. Người mục tử biết từng con chiên của mình và “gọi tên từng con” : mỗi người chúng ta có những nét riêng về quá khứ, cá tính, khả năng, tội lỗi, nhược điểm… Do những nhược điểm của tôi mà người khác coi thường tôi… Vì không hiểu những nét riêng của tôi mà người khác không thông cảm cho tôi… Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ về tôi, nên Ngài yêu thương tôi, thông cảm cho tôi, và có cách riêng để chăm sóc và hướng dẫn tôi.

“… và chiên nghe tiếng của người đó” : đáp lại, tôi cũng phải “nghe tiếng” Chúa Giêsu và đi theo Ngài với trọn niềm tin yêu phó thác.

5. “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”.

“Tôi xin chọn Người làm gia nghiệp tôi mãi mãi. Trọn đời tôi trót cả đời tôi, trọn tuổi xuân, dâng cả tình yêu luôn với ước mơ…”. Đối với tôi, đó không chỉ là một bài hát, là những nốt nhạc, nhưng là tâm nguyện, là cuộc đời của một chàng trai đã dám từ bỏ tất cả : tương lai rực rỡ, một người yêu tuyệt vời và cả những cuộc vui cùng bè bạn, để bước theo tiếng Chúa gọi.

Đã bao lần tôi muốn quyết định…những rồi lại thôi. Muốn đặt bước chân mình lên bước chân Người, định đưa tay tôi ra để Người nắm lấy và dẵn tôi đi, nhưng lại hèn nhát rụt tay lại.

Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, và xin cho con biết đón nhận thánh ý Người.  (Epphata) 

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần IV | Phục sinh | Năm A

TUẦN IV PHỤC SINH NĂM A

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Ga 10, 1-10

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.    

SUY NIỆM:

Một trong những yếu tố thành công của chăn nuôi là chuồng trại. Chuồng trại để bảo vệ đàn vật khỏi thú dữ, cũng để đàn vật không tùy tiện ra ngoài mà đi lạc hoặc bị kẻ trộm bắt.

Chúa Giêsu nói Ngài là cửa chuồng chiêng, muốn nói lên chức năng làm chủ của Ngài. Mọi thú dữ, mọi kẻ trộm đều bị Ngài xua đuổi, tiêu diệt, vì Ngài là chủ của đoàn chiên. Ngược lại Ngài cũng bảo vệ những con chiên trong đàn để không bị những cám dỗ bên ngoài mà tùy tiện rời khỏi đàn…

Cám ơn Chúa Cha cho chúng ta có “cửa chuồng” vững chắc là Chúa Giêsu, Đấng đã đánh bại tử thần vì yêu mến đoàn chiên của mình.

Quyết tâm là những con chiên ngoan không bị những thú vui bên ngoài lôi kéo mà rời khỏi đoàn chiên; không nghe theo những tiếng lạ quyến rũ để quậy phá trong đoàn chiên.

Đồng thời nhắc nhở mỗi người cũng là mục tử trong bổn phận, trong ơn gọi của mình mà lo gìn giữ đoàn chiên Chúa đã trao phó.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giêsu Mục tử nhân lành, xin gìn giữ đoàn chiên là chính Giáo hội Chúa khỏi những thú dữ của xã hội hôm nay.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Ga 10, 1-10

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. 

Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.     

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu khẳng định Ngài là cửa chuồng chiên, để thấy hình ảnh vị Mục tử giang tay ôm ấp, bảo vệ cho từng con chiên của mình. Đó cũng là khẳng định nếu chiên ở trong đàn thì nó sẽ an toàn vì được sự bảo vệ của Mục tử.

Ở trong đàn chiên có Chúa Giêsu là cửa nghĩa là phải hoàn toàn để Chúa bảo vệ, dứt khoát sống theo những gì Ngài hướng dẫn, chỉ dạy.

Sự nguy hiểm là có những con chiên không muốn sống trong đàn vì nó nghĩ mình bị gò bó, mất tự do nên luôn hướng ra bên ngoài mong muốn được tung tăng, bay nhảy…

“Cửa chuồng chiên” là Lời Chúa, Giới luật của Chúa và tất cả những gì liên quan đến Chúa để giúp cho đàn chiên của Ngài “được sống và sống dồi dào”.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết quý trọng sự chăm sóc của Chúa để lo sống tốt trong hoàn cảnh của mình, không đòi hỏi cũng như mơ tưởng những điều cao xa vượt sức; nhưng góp phần xây dựng và bảo vệ đàn chiên.

THỨ BA

LỜI CHÚA: Ga 10, 22-30

Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: “Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết”. Chúa Giêsu đáp: “Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một”.     

SUY NIỆM:

Người Do Thái khao khát mong chờ ơn cứu độ như hạn chờ mưa, nên với những gì Chúa Giêsu làm, họ “ngờ ngợ” Đấng Messia chính là Ngài. Vì vậy họ đã hỏi thẳng Ngài: “Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết”.

Vấn đề chính yếu của người Do Thái theo lời Chúa Giêsu là: “Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin.” Lý do họ không tin là vì họ không thuộc đàn chiên của Ngài.

Quả thật: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Nếu họ thuộc đàn chiên của Chúa Giêsu thì họ sẽ nghe và theo Chúa. Họ muốn tìm kiếm ơn cứu độ nhưng không bước vào đàn chiên của Chúa, vì vậy họ mãi mãi là những người ở “bên ngoài”.

Hành động của Kitô hữu để được ơn cứu độ, được hạnh phúc đích thực là “nghe” và “theo” Mục tử Giêsu; khao khát, mong mỏi, tìm kiếm duy nhất của con chiên là làm sao nghe tiếng Mục tử rõ hơn và bước theo Ngài mỗi ngày cách sát gót hơn.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, con vẫn miệt mài tìm kiếm Chúa trong cuộc đời này, nhưng có nhiều âm thanh làm con không nghe rõ hoặc lạc mất tiếng Chúa. Xin cho con biết lắng đọng tâm hồn trong cầu nguyện để nghe tiếng Chúa dễ dàng hơn.

THỨ TƯ

PHÚC ÂM: Ga 14, 6-14

“Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”.

Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.

Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “†Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê,‡ ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?’ Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho”.    

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Ga 13, 16-20

Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: “Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc. Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.   

SUY NIỆM:

Hành động rửa chân cho các môn đệ là hành động khiêm nhường xuất phát bởi lòng yêu thương, phục vụ; càng giá trị hơn khi người phục vụ lại là người đứng đầu.

Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ mình chỉ là môn đệ (người nhỏ) mà lại được Thầy (người lớn) cúi xuống rửa chân cho, để nhớ đến bài học căn bản của đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương.

Xuất phát bởi tình yêu thương đó mà Chúa Giêsu được sai đến thế gian này, và cũng từ tình yêu thương đó mà các môn đệ được sai đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng.

Từ bài học yêu thương cho ta thấy môn đệ Đức Giêsu là những người sống và rao giảng tình yêu thương, nghĩa là những con người biết sống cho người khác; còn những ai chỉ biết sống cho riêng mình là những kẻ “giơ gót đạp Ta” theo lời Chúa Giêsu nói, nghĩa là những con người phản bội tình yêu thương.

CÂU NGUYỆN:

Lạy Chúa, người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Chúa, là chúng con biết yêu thương nhau và yêu thương mọi người. Xin cho chúng con trở thành chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa lòng đời hôm nay.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 14, 1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.  

SUY NIỆM:

Tôma là một con người theo trực giác. Điều gì rõ ràng ông mới chấp nhận, mới tin. Vì vậy khi Chúa Giêsu nói về việc ra đi dọn chỗ cho các môn đệ, Tôma muốn Thầy chỉ rõ ràng Thầy đi đâu, chỗ nào để ông với các anh em mới biết đường đi theo.

Chúa Giêsu đã nói lên chân lý của đạo là con đường, con đường của đạo Chúa chính là Đức Giêsu, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Vì thế chỉ cần biết rõ Chúa Giêsu thì sẽ biết con đường để đi và đi như thế nào.

Con đường Chúa Giêsu là con đường thánh ý Chúa Cha. Ngài đến thế gian này là để làm theo thánh ý Chúa Cha; và tất cả mọi việc Ngài làm đều để cho Danh Cha được cả sáng.

Con đường Chúa Giêsu là con đường yêu thương, phục vụ. Ngài không làm gì cho bản thân, nhưng hoàn toàn cho người khác, nhất là người cùng khổ, người nghèo, người bệnh tật và người ngoại.

Bước theo Chúa Giêsu là đi trên con đường của Ngài, con đường làm theo thánh ý Chúa Cha và con đường yêu thương phục vụ. Càng biết Chúa Giêsu bao nhiêu thì càng phải trở nên giống Ngài bấy nhiêu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, chúng con loay hoay để tìm đường đi vì tưởng con đường của Chúa là con đường lạ lẫm hoặc rất khó đi, nhưng thực ra con đường của Chúa rất gần gũi và dễ đi, đó là con đường yêu thương. Vì vậy xin cho con biết rèn luyện con tim của mình để yêu Chúa hết lòng và yêu anh em hết tình.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 15, 9-17

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. 

“Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.

“Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”.  

SUY NIỆM:

Các môn đệ đã chọn Thầy Giêsu là lý tưởng, là con đường để bước đi thì phải “ở lại trong tình yêu của Thầy”. Dấu hiệu để người môn đệ “ở lại trong tình yêu của Thầy” là “yêu như Thầy”. 

Tình yêu cũng chính là lệnh truyền của Thầy Giêsu: “Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.”

Vì thế, nét đặc trưng của đạo Chúa cũng chính là tên gọi của đạo ấy: đạo yêu thương. Yêu không phải theo cảm xúc tự nhiên, nhưng là yêu như Chúa đã yêu, một tình yêu đơn sơ và không tính toán, một tình yêu chân thành chỉ lo điều tốt cho người khác.

Kết quả để đánh giá mức độ sống đạo của người môn đệ hay còn gọi là hoa trái trong đời sống đức tin chính là tình yêu nơi người ấy và sự lan tỏa tình yêu của người ấy đến xung quanh.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, đã đến lúc phải vượt qua ranh giới của lề luật, của định chế con người để hướng đến giới luật duy nhất của đạo Chúa là giới luật yêu thương. Xin Chúa cho con biết hướng đến giới luật đó và đánh giá mọi sự cũng chỉ bằng giới luật mà Chúa đã dạy: “các con hãy yêu mến nhau”

Hạt giống nảy mầm | Tuần III | Phục sinh

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH

Lc 24,13-35

A. Hạt giống…

Trong câu chuyện hai môn đệ Emmau nhận biết Chúa Giêsu phục sinh, thánh Luca chỉ kể tên một người là Clêôpát. Có nhà chuyên môn Thánh Kinh nói rằng Thánh Luca cũng biết tên người kia nhưng ông không kể ra, vì có ý coi người kia là đại diện cho bất cứ môn đệ nào của Chúa Giêsu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể có được cảm nghiệm về sự nhận biết Chúa Giêsu phục sinh như người môn đệ ấy. 

Vậy nhờ đâu mà hai môn đệ này cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu phục sinh ?

– Thứ nhất là nhờ Thánh Kinh : “Khi Ngài nói chuyện và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bùng cháy lên đó sao !”.

– Thứ hai là nhờ bí tích Thánh thể : “Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng, tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.

– Thứ ba là nhờ cuộc sống cộng đoàn : “Họ quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó”.

B. … nảy mầm.

1. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật của quá khứ. Ngài đang sống ngay sát bên cạnh ta tuy giác quan ta không cảm thấy Ngài. Có lẽ từ trước tới nay, tôi chỉ tin điều này một cách “lý thuyết”. Nếu tôi thực sự tin và sống với Đấng phục sinh đang ở bên cạnh tôi thì cuộc đời tôi sẽ khác, và hiệu quả những hành động của tôi cũng sẽ khác rất nhiều.

2. Khi ta sốt sắng đọc Thánh Kinh, tham dự Thánh lễ và sống tình hiệp nhất cộng đoàn thì ta có thể cảm thấy sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu phục sinh.

3. Nhiều người coi Chúa là ma và sợ Chúa như sợ ma. Chúa không muốn như vậy : Ngài muốn ta coi Ngài là một người sống, và hãy yêu thương phó thác vào Ngài.

4. Noreen Towers là một người làm việc phục vụ cho những người nghèo. Nhưng cô chán nản vì thấy hầu như những việc làm của mình không thành công. Một tối kia cô giật mình thức giấc và cảm thấy hình như Chúa Giêsu đang nói chuyện với cô, Ngài hỏi : “Con không thể tin vào chương trình của Thầy đã vạch sẵn cho con ư ?”. Một thoáng cảm nghiệm chóng qua ấy đã thay đổi hẳn con người cô : từ một người chán chường, cô đã trở thành một người có đức tin không thể nào lay chuyển nổi. (Mark Link, Vison 2000)

5. “Chúa Giêsu Kitô có cách nào khác để đi vào lòng người nếu không phải là qua một trái tim tan nát ?” (Oscar Wilde).

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần III | Phục sinh | Năm A   

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III PHỤC SINH NĂM A

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA : Lc 24, 13-35

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”. 

Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.

Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.    

SUY NIỆM:

Đường Emmaus là đường của mỗi chúng ta, vì rất nhiều khi trong cuộc đời chúng ta chán nản, thất vọng, gặp những điều trái ý, chúng ta muốn bỏ cuộc…

Nhưng rõ ràng trong mọi cảnh huống cuộc đời, Thiên Chúa không bao giờ để chúng ta đơn độc. Ngay cả khi các môn đệ tưởng rằng Thầy Giêsu đã chết, nhưng đâu ngờ Thầy vẫn âm thầm dõi theo bước chân của họ, cùng đi với họ trong lúc họ đã mất hết niềm hy vọng.

Ngài dùng mọi cách để các ông có thể tiếp cận với lời Chúa, vì chỉ nhờ lời Chúa các ông mới có thể hiểu được mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh.

Ngài vẫn ân cần cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông; một hành động quen thuộc, nhưng là cử chỉ yêu thương để muốn nói rằng: Thầy yêu các con đến cùng.

Chính vì thế dù mọi cảnh huống cuộc đời có như thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng hãy luôn luôn bám vào lời Chúa và Bí tích Thánh Thể, vì đó chính là nguồn lực giúp ta vượt qua những đau khổ, buồn chán, thất vọng để đạt đến niềm vui Phục Sinh cùng với Thầy Giêsu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, dù cuộc đời có như thế nào đi chăng nữa, xin cho con luôn nhớ rằng Chúa đã Phục Sinh. Alleluia.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Ga 6, 22-29

Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu.

Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giêsu đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”. Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu đã nói lên thực tế phũ phàng vào thời của Ngài: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.”

Một số người không thấy giá trị cao cả mà Chúa muốn giới thiêu, họ chỉ thấy giá trị phàm tục trước mắt là ăn bánh no nê, thế thôi!

Nhưng liệu cái no có đủ đảm bảo hạnh phúc cho con người không? Thưa không, vì thực tế có những người chẳng những no mà còn tràn trề, còn tích cóp để dành nhưng vẫn đau khổ và bất hạnh; nhưng có những người không đủ no, vất vả suốt cuộc đời chỉ có miếng ăn tạm đủ, nhưng họ vẫn hạnh phúc, tươi cười.

Thế thì điều gì là căn bản con người cần tìm kiếm? “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi.”

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình đừng để cuộc đời mình bị nhấn chìm bởi những giá trị tầm thường trước mắt, nhưng hãy biết hướng đến những giá trị cao cả hơn, mà giá trị cao cả nhất chính là ơn cứu độ, là sự sống đời đời cho con người.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con có cái nhìn linh thánh trong mọi sự để vượt qua những cám dỗ nhỏ nhoi, tầm thường của cơm áo gạo tiền mà cố gắng đạt đến giá trị vĩnh cửu trên trời là ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã chuộc lại cho chúng con bằng chính cái chết của Ngài.

THỨ BA: THÁNH MARCÔ

LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.   

SUY NIỆM:

Đức Giêsu Phục Sinh không chỉ đem niềm vui đến cho các môn đệ, mà còn muốn từ các ông đến khắp tứ phương thiên hạ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16, 15).

Để làm bằng chứng cho những lời rao giảng của các môn đệ, Đức Giêsu hứa ban cho các ông quyền năng: “Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16,17-18).

Quyền năng đó không chỉ dành cho các môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn được ưu ái dành cho các môn đệ của Đức Giêsu ngày hôm nay, khi họ biết “nhân danh Đức Giêsu” để loan báo Tin Mừng.

Họ vẫn trừ được quỷ, nghĩa là đánh đuổi được những mưu mô cám dỗ về điều ác.

Họ nói tiếng lạ, nghĩa là nói lời chân lý, lời sự thật trong cuộc sống hôm nay.

Họ không sợ rắn và thuốc độc, nghĩa là những thứ nguy hiểm sẽ không thấm nhập được vào người của họ, vì họ có sức mạnh của Đức Giêsu.

Ngày xưa các môn đệ đặt tay chữa bệnh cho người khác, thì hôm nay môn đệ của Đức Giêsu vẫn đặt tay để chữa người ta lành bằng tình yêu thương của họ, khi họ dám đụng chạm đến những mảnh đời bất hạnh.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, thánh Maccô đã được Chúa soi sáng, hướng dẫn để viết lên lời Chúa trong Tin mừng của Ngài, cho muôn dân nhận biết Chúa. Đó cũng là sứ mạng của mỗi người chúng con. Xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức sứ mạng của mình, để sống gắn bó với Chúa, hầu có thể kể về Chúa cho người khác.

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Ga 6, 35-40

Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám đông rằng: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài. Bởi vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại. Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời”.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu đến thế gian để thực hiện ý định của Chúa Cha, mà chính Ngài đã măc khải: “Ý muốn của Cha Ta là: hễ ai thấy Con thì có sự sống đời đời”. Như vậy, Chúa Cha đã trao phó cho Chúa Con ơn cứu độ của mỗi người chúng ta.

Không phải thấy Chúa Giêsu là đương nhiên được cứu độ như một thứ bùa chú, nhưng cái “thấy” ở đây bao gồm cả lý trí, ý chí và con tim, thấy không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng trọn vẹn con người, nghĩa là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ.

Hằng ngày tôi vẫn đọc kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ… nhưng cuộc sống tôi chưa thay đổi là vì tôi chưa “thấy” Chúa trong những việc đạo đức tôi làm, có lẽ tôi chỉ làm vì thói quen?!

Tôi vẫn nghe lời Chúa dạy để làm việc bác ái rất nhiều, lặn lội khắp nơi để giúp đỡ người nghèo, cứu trợ người gặp khó… nhưng tôi vẫn chưa vui, chưa bình an, có lẽ tôi chưa “thấy” Chúa trong những người nghèo khổ, mà chỉ làm vì thói quen, vì tính cách, thậm chí có những người làm vì phô trương?!

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con gặp Chúa mỗi ngày trong mọi việc và nơi mọi người, vì nếu nhận ra Chúa trong mọi sự con sẽ được sự sống đời đời.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Ga 6, 44-51

Khi ấy, Chúa Giêsu phán với dân chúng rằng: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.  

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu nói lên sự thật để người Do Thái biết rằng họ đã vượt qua giai đoạn cũ kỹ của cha ông họ, thời mặc dù được Thiên Chúa cho ăn manna trong sa mạc, nhưng họ vẫn đói khát và phải chết. Nay họ có bánh trường sinh từ trời xuống để ai ăn bánh đó sẽ được sống muôn đời.

Chúa Giêsu phân biệt sự sống tự nhiên được nuôi dưỡng bằng thứ bánh tự nhiên, nhưng sẽ chấm dứt theo quy luật tự nhiên với sự sống siêu nhiên được nuôi dưỡng bằng bánh siêu nhiên để được sống muôn đời.

Từ đây dân chúng biết rằng mình không chỉ sống cho đời này, mà còn phải chuẩn bị cho đời sau. Muốn như vậy chỉ có con đường duy nhất là tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mạng sống làm giá chuộc và lấy máu thịt mình để nuôi dân chúng.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, con đã được biết Chúa, đã tin và bước đi trên con đường của Chúa, là con đường cứu độ cho chính bản thân con. Xin Chúa cho con biết đón rước Chúa mỗi ngày bằng nhiều cách khác nhau, nhất là nơi Bí tích Thánh Thể, bánh ban sự sống, để con được nuôi dưỡng về phần linh hồn.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 6, 53-60

Khi ấy, những người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.

Người giảng dạy những điều này tại Hội đường Caphar-naum.    

SUY NIỆM:

Sự thật Chúa Giêsu mặc khải khiến một số người Do Thái không thể chấp nhận được, sự thật đó đã được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm qua, rằng Ngài sẽ nuôi dưỡng dân chúng bằng thịt và máu của Ngài.

Dân chúng không thể chấp nhận theo suy nghĩ tự nhiên “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?” Quả thật, theo tự nhiên thì không thể được và không thể chấp nhận.

Nhưng niềm tin Chúa Giêsu hướng đến cho nhân loại vượt lên trên lẽ tự nhiên, vì nếu theo tự nhiên con người không cần tìm đến với Chúa, họ sẽ sống mãi với những giá trị tự nhiên đó và sẽ mãi mãi trầm luân.

Niềm tin mà Chúa Giêsu gieo vào lòng nhân loại chính là giá trị siêu nhiên, cao vời vượt lên trên tất cả. Niềm tin đó không phải là thứ hão huyền, nhưng là sự thật được chứng minh bằng chính cuộc đời của Ngài.

Nếu Chúa Giêsu chỉ làm được những chuyện bình thường hoặc khoa học có thể chứng minh được thì đó cũng chỉ là  bình thường mà thôi; nhưng Chúa Giêsu hơn thế nữa, Ngài làm được những việc phi thường.

Việc phi thường nhất mà Chúa Giêsu đã làm là lấy Thịt Máu mình làm lương thực nuôi dưỡng con người.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con tin vào Chúa không phải vì những gì con hiểu được, nhưng tin vào Chúa qua những việc nhiệm mầu Chúa đã làm cho con. Xin cho con biết tin tưởng vững vàng vào Bí tích Thánh Thể để nhờ đó con được sống và sống dồi dào như ý định của Chúa Cha.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 6, 61-70

Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: “Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các ngươi có một số không tin”. Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: “Bởi đó, Ta bảo các ngươi rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”.  

SUY NIỆM:

Đạo là con đường. Con đường Chúa Giêsu muốn giới thiệu không phải là con đường trãi thảm, rãi đầy hoa hồng… nhưng là sự thật phải được đánh đổi. Nó không phải là thuốc phiện để gây mê, mà nó chính là con đường chúng ta đi với đầy đủ mọi cung bậc, trong đó có cả những sự thật con người không thể chấp nhận được.

Khi nghe Chúa Giêsu nói về việc ăn thịt và uống máu Ngài, nhiều người đã bỏ đi vì họ chưa hiểu thấu đáo. Thịt và máu là thực sự, nhưng ở một hình dạng khác do quyền năng của Thánh Thần.

Khi muốn cùng đi chung trên một con đường, người ta phải bỏ qua những bất đồng về nhiều khía cạnh khác nhau, để cùng nhau tìm ra một lối đi chung, quan trọng là thiện chí của cả hai bên.

Con đường mà Chúa Giêsu muốn dẫn chúng ta đi là con đường mang lại niềm vui, hạnh phúc tròn đầy viên mãn, con đường mà Chúa phải đánh đổi bằng chính mạng sống Ngài. Vì thế đây là con đường đáng tin tưởng dù chúng ta chưa biết mình đi như thế nào.

Simon Phêrô đã đã nhận ra điều đó nên ông đã thay mặt anh em mình để xác quyết một điều: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, ước gì lời của Simon Phêrô cũng là xác quyết của chúng con: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.”

Ôn tập Tin mừng Mátthêu

DẪN NHẬP

01. Dẫn nhập:

a. Mt còn tên gọi khác là gì?

– Lêvi.

b. Trước khi theo CGs, Mt làm nghề gì? Mt có thuộc nhóm 12 Tông đồ hay không?

– Mt làm nghề thu thuế.

– Mt thuộc nhóm 12 tông đồ.

c. Mt viết Tin mừng cho ai? (do thái hay dân ngoại) (độc giả). Viết Tin mừng để làm gì? (mục đích). Viết khi nào?

– Viết cho người Do thái (trong nước cũng như ngoài nước).

– Viết để chứng minh rằng CGS là Đấng Messia mà Thánh Kinh loan báo.

– Viết khoảng năm 80-90.

d. Tin mừng Mt có bao nhiêu chương?

– 28 chương

CHƯƠNG 1

02. Trong 4 tác giả Tin mừng, tác giả nào ghi lại chuyện thời thơ ấu của CGS?

  – Chỉ có Mt và Lc.

03. Gia phả (1,1-17):

a. Mt ghi gia phải của CGS để liên kết CGS với ai?

                  – Đavít và Abraham.

b. Trong gia phải chia làm mấy giai đoạn? Mỗi giai đoạn gồm bao nhiêu đời? Số đời này có ý nghĩa gì?

– Chia làm 3 giai đoạn.

– Mỗi giai đoạn 14 đời. Số 14 liên hệ đến tên vua Đa.vít, chứng tỏ Đức Giê-su là Đấng Messia dòng Đavít.

c. Trong gia phả, Mt có nói đến mấy người đàn bà (không kể Đức Maria)? ý nghĩa là gì?

– 4 người đàn bà: Tama, Ra.kháp, Rút và vợ ông Urigia (bà Batshêba).

– Ý nghĩa: Chúa chọn những người bất thường vào chương trình cứu độ để chứng tỏ rằng trong CGS mọi bức tường ngăn cách bị phá huỷ (dân ngoại và do thái, phụ nữ và nam, thánh nhân và tội lỗi).

04. Truyền tin cho Giuse (1,18-25):

a. Ý định ban đầu của Giuse trước khi sứ thần báo tin là gì?

– Từ bỏ Maria cách kín đáo.

b. Sứ mệnh mà sứ thần trao cho Giuse?

– Đón nhận và bảo vệ cho Maria và Hài nhi Giêsu.

c. Đáp trả của Giuse với lời của sứ thần là gì?

– Vâng theo lời sứ thần.

CHƯƠNG 2

05. Các nhà đạo sĩ đến tìm Chúa (2,1-12):

a. Dấu chỉ Chúa ban cho các nhà đạo sĩ là gì? Họ đáp lại thế nào?

– Ngôi sao. Họ mau mắn lên đường để tìm Chúa.

b. Dấu chỉ Chúa ban cho các thượng tế và kinh sư là gì? Họ đáp lại thế nào?

– Thánh Kinh mà họ học biết. Họ không chịu lên đường.

c. Dấu chỉ Chúa ban cho Hêrôđê là gì? Họ đáp lại thế nào?

– Việc các nhà đạo sĩ hỏi đường và những lời Thánh Kinh mà các thượng tế và kinh sư nói. Nhưng ông chỉ muốn tìm để giết hài nhi Giê-su.

d. Chúa có tiếp tục ban dấu chỉ cho chúng ta không?

– Chúa tiếp tục ban dấu chỉ cho chúng ta qua các biến cố hằng ngày.

06. Đưa Hài Nhi Giêsu đi trốn (2,13-18):

a. Giuse đưa Maria và Hài nhi trốn sang đâu?

– Ai cập.

b. Từ con người Giuse trong câu chuyện này, chúng ta bài học gì?

– Vâng phục Thiên Chúa cách tuyệt đối và ra sức bảo vệ gia đình.

c. Từ con người Hêrôđê trong câu chuyện này, chúng ta bài học gì?

– Đam mê quyền lực dẫn đến tội ác.

– Mưu tính của con người không thắng được Thiên Chúa.

d. Khi trở về, họ ở đâu trong nước Palestin?

– Nadarét

CHƯƠNG 3

07. Gioan Tẩy Giả (3,1-12):

a. Cha mẹ của Gioan Tẩy Giả tên gì?

– Dacaria và Êlisabéth (Isave).

b. Chúa chọn Gioan Tẩy Giả để làm gì cho Chúa? Ông đã kêu gọi dân chúng làm gì?

– Chúa chọn ông làm tiền hô.

– Ông kêu gọi dân chúng sám hối.

08. CGS chịu phép rửa (3,13-17):

Qua biến cố phép rửa, Chúa Cha muốn nói gì về CGS?

– CGS là Con Thiên Chúa, rất đẹp lòng Người.

CHƯƠNG 4

09. CGS chịu cám dỗ (4,1-11):

a. CGS chịu mấy cuộc cám dỗ? Các cám dỗ đó là gì?

– 3 cuộc cám dỗ: bánh ăn, sụp lại ma quỷ và lao mình xuống từ trên cao.

b. CGS ở trong sa mạc bao nhiêu ngày? Con số này gợi lên điều gì?

– 40 ngày đêm. Con số này gợi lại thời gian thử thách của dân Israel 40 năm trong sa mạc.

c. Noi gương CGS, chúng ta phải làm gì để có thể chiến thắng cám dỗ?

– Dựa vào Lời Chúa để đi theo con đường của Chúa.

10. CGS kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (4,18-22):

a. 4 môn đệ đầu tiên tên là gì?

– Phêrô, Anrê, Gioan và Giacôbê.

b. Chúa gọi họ đang làm gì?

– Đang hành nghề đánh cá.

CHƯƠNG 5

11. Tám mối phúc (5,1-12):

a. CGS giảng một bài dài trên núi. Bài giảng này gọi là gì?

– Gọi là bài giảng trên núi.

b. Có mấy mối phúc mà CGS nói đến.

– 8 mối phúc

c. Tâm hồn nghèo khó nghĩa là gì?

– Là tâm hồn cậy dựa vào Chúa chứ không cậy dựa vào quyền thế hay vật chất…

12. Muối và ánh sáng (5,13-16):

     Là môn đệ CGS, chúng ta là muối và ánh sáng cho trần gian:

a. Là muối nghĩa là gì?

– Có nghĩa là tín hữu phải ướp cho đời không bị hư hoại mà mỗi ngày trở nên tốt hơn.

b. Là ánh sáng nghĩa là gì?

– Người tín hữu phải chiếu sáng cho thế giới bằng những việc tốt trong cuộc sống.

13: CGS kiện toàn lề luật (5,17-48):

Người ta kết án CGS vi phạm lề luật nhưng Ngài đến để kiện toàn luật: Kiện toàn một số luật thế nào?

– CGS kiện toàn lề luật nghĩa là giúp người ta sống đúng tinh thần của luật: yêu thương.

CHƯƠNG 6

14. Ba việc làm quan trọng (6,1-18) là bố thí, ăn chay, cầu nguyện, CGS dạy thế nào?

– Không làm vì khoe khoang nhưng làm vì lòng yêu mến.

15. Của cải đích thực (6,19-34):

Của cải đích thực là gì? Làm cách nào để tích trữ?

– Của cải đích thực là nước trời. Tích trữ của cải đích thực bằng cách làm những việc bác ái.

CHƯƠNG 7

16. Đừng xét đoán (7,1-5):

Tại sao chúng ta không được xét đoán (kết án)?

– Vì chúng ta ai cũng có lỗi và quyền kết án chỉ thuộc một mình Thiên Chúa.

17. Cứ xin thì được (7,7-11):

CGS khuyến khích chúng ta cứ xin.

a. Nhưng xin gì?

– Xin Chúa ban CTT để Người hướng dẫn chúng ta sống tốt.

b. Tại sao cứ xin?

– Cứ xin vì Thiên Chúa là Cha nhân từ sẵn sàng ban những điều tốt đẹp cho chúng ta.

18. Khuôn vàng thước ngọc (7,12-14):

Đâu là khuôn vàng thước ngọc mà CGS dạy chúng ta?

– Tất cả những gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.

19. Môn đệ chân chính (7,21-27):

Thế nào là một môn đệ chân chính của CGS?

– Đó là người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.

CHƯƠNG 8

20. Chữa người cùi (8,1-4):

Lời cầu xin của anh cùi chứa đựng bài học về cầu nguyện đáng cho chúng ta học hỏi.  Đó là điều gì?

– Đó là cầu nguyện theo ý Chúa muốn chứ không phải ý muốn của chúng ta.

21. Chữa người đầy tớ viên đội trưởng (8,5-13):

Viên đội trưởng là mẫu gương cho các tín hữu về điều gì?

– Mẫu gương về đức tin.

22. CGS dẹp yên sóng biển (8,23-27):

CGS nói gì với các môn đệ và với sóng biển?

– CGS quở trách các môn đệ kém tin.

– CGS ra lệnh cho sóng biển yên lặng.

CHƯƠNG 9

23. Chữa người bại liệt (9,1-8):

CGS chữa người bại liệt nhờ lòng tin của ai?

– Lòng tin của những người khiêng anh đến, đó là sức mạnh lòng tin của cộng đoàn.

24. Kêu gọi Mt và tranh luận về quyền tha tội (9,9-13):

a. CGS gọi Mt khi ông đang làm gì?

– Ngồi bàn thu thuế.

b. Khi dùng bữa trong nhà Mt, CGS tranh luận với ai về quyền tha tội?

– Với những người biệt phái (Pharisiêu).

25. Chữa người phụ nữ bị băng huyết và con gái ông Giairô (9,18-26):

a. Người đàn bà bị băng huyết bao lâu?

– 12 năm.

b. Hai phép lạ này dạy điều gì?

– Lòng tin vào quyền năng của Chúa.

26. Thương dân chúng lầm than (9,35-38):

Thấy dân chúng bơ vơ nhưng đàn chiên không người chăn, CGS làm gì?

– Ngài chạnh lòng thương. 

CHƯƠNG 10

27. Sai các tông đồ (10,1-16):

a. CGS chọn bao nhiêu tông đồ?

– 12.

b. Hai nhiệm vụ chính của các tông đồ khi CGS sai họ đi là gì?

– Rao giảng Tin mừng.

– Chữa lành bệnh và trừ quỷ.

c. Phủ bụi chân nói lên điều gì?

– Là dấu hiệu nói lên sự đoạn tuyệt.

28. Nhưng đòi hỏi của người môn đệ (10,17-42):

a. Người môn đệ chắc chắn gặp khó khăn, thậm chí bị bách hại. CGS dạy họ thế nào?

– Đừng sợ nhưng kiên tâm, tin vào Chúa và hãy nói công khai.

b. CGS dạy điều gì khi nói: “ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng là môn đệ Ta” (10,37) ?

– Hãy dành cho Ngài vị trí ưu tiên.

c. Đón tiếp các nhà truyền giáo là đón tiếp ai?

– Đón tiếp CGS và Chúa Cha.

CHƯƠNG 11

29. Câu hỏi của Gioan Tẩy Giả (11,1-15):

a. Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi CGS: “Thầy có phải là Đấng phải đến không?”. “Đấng phải đến” là ai?

– Chính là Đấng Messia hay Đức Kitô.

b. CGS nói gì về Gioan Tẩy Giả?

– Gioan Tẩy Giả là một người cao trọng, hơn cả các tiên tri ngày xưa.

30. CGS nói về thế hệ đương thời (11,16-19):

CGS dùng hình ảnh trẻ con chơi trò đám cưới và đám tang để nói lên thái độ của những người biệt phái và kinh sư. Thái độ đó là gì?

– Cứng lòng trước lời rao giảng của CGS.

31. CGS quở trách các thành (11,20-24):

Ba thành bị CGS quở trách là thành nào? Tội gì?

– 3 thành đó là: Khoradin, Bétxaiđa và Caphanaum.

– Tội của 3 thành: Cứng lòng tin dù chứng kiến nhiều phép lạ.

32. Mang lấy ách (11,28-30):

CGS bảo “hãy mang lấy ách của Ta?”. Ách của Ngài là gì?

– Mang lấy ách của CGS là học cách lấy lời dạy và cách sống của ngài, đó là tình yêu thương và sự hiền lành.

CHƯƠNG 12

33. Tranh luận về ngày Sabat (12,1-14):

Đâu là ý nghĩa đích thực của ngày Sabat mà CGS muốn dạy?

– Đó không phải là giữ những điều cấm kỵ, mà là cố gắng thánh hoá cho Chúa bằng những việc làm bác ái yêu thương.

34. Tội chống lại Chúa Thánh Thần (12,32):

CGS nói tội chống lại CTT thì không được tha. Tội chống lại CTT là tội gì?

– Đó là tội ngoan cố, không chịu lắng nghe lời TC để thay đổi cuộc sống.

35. Dấu lạ Giôna (12,38-42):

CGS lấy lại dấu lạ Giôna để nói điều gì với những người biệt phái và kinh sư?

– CGS muốn nhấn mạnh đến lòng sám hối của dân Ninivê, trái ngược với sự cứng tin của nhóm biệt phái và kinh sư?

36. Gia đình thật của CGS (12,46-50):

CGS dạy thế nào để trở nên gia đình của Ngài?

– Lắng nghe và thực hành lời Chúa.

CHƯƠNG 13

37. Dụ ngôn người gieo giống (13,1-23):

a. Có mấy loại đất? Chia thành mấy nhóm?

– Có 4 loại đất: Vệ đường, đá sỏi, gai gốc và đất tốt.

– Chia làm 2 nhóm: Nhóm không sinh hoa trái và nhóm sinh hoa trái.

b. Hạt giống là gì? Các loại đất ám chỉ điều gì?

– Hạt giống là lời Chúa.

– Các loại đất ám chỉ thái độ đón nhận lời Chúa của con người.

38. Dụ ngôn cỏ lùng (13,24-30.36-43):

Dụ ngôn cỏ lùng dạy điều gì về Thiên Chúa?

– Thiên Chúa không thích sự ác, nhưng Ngài kiên nhẫn với người tội lỗi. Ngài mong họ hoán cải để được sống.

39. Dụ ngôn hạt cải và nắm men (13,31-33.44-50):

Hai dụ ngôn này nói điều gì về Nước Trời?

– Dụ ngôn hạt cải: Nhấn mạnh sự phát triển bên ngoài của nước trời, từ nhóm nhỏ trở nên lớn.

– Dụ ngôn nắm men: Nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng bên trong. Nước trời ảnh hưởng và biến đổi thế giới.

40. Dụ ngôn kho báu và viên ngọc (13,44-46):

Hai dụ ngôn này nhấn mạnh điều gì?

– Nước Trời là kho báu cao quý nhất mà con người cần phải theo đuổi.

41. CGS trở về Nadarét (13,53-58):

Thái độ của dân thành Nadarét thế nào? Tại sao?

– Sửng sốt về lời dạy và các phép lạ CGS đã làm, nhưng họ không tin.

– Lý do: vì họ dựa vào nguồn gốc trần thế của Ngài: Con ông thợ mộc Giuse.

CHƯƠNG 14

42. Gioan Tẩy Giả bị giết (14,3-13):

a. Gioan bị giết bởi ai?

– Hêrôđê Antipas.

b. Tại sao Gioan bị giết?

– Tố cáo vua Hêrôđê loạn luân vì lấy chị dâu của mình.

43. Hoá bánh ra nhiều (14,13-21):

a. Mt kể lại mấy lần việc CGS làm phép lạ hoá bánh ra nhiều? Mỗi lần nuôi bao nhiêu người?

– 2 lần.

– Lần 1: 5000 người; lần 2: 4000 người.

b. Khi thấy dân chúng đói, giải pháp của CGS và các môn đệ thế nào? CGS dạy chúng ta bài học gì qua sự việc này?

– Giải pháp của các môn đệ là giải tán đám đông; nhưng giải pháp của CGS là phải lo cho họ.

– Bài học cho chúng ta: đứng trước nhu cầu của tha nhân, chúng ta cũng phải làm cái gì đó cho họ chứ không phải thoái thác.

44. CGS đi trên mặt nước (14,22-33):

a. Ai xin CGS được đi trên mặt nước như Ngài?

– Phêrô.

b. Người này bị chìm. Tại sao ông bị như thế?

– Vì ông yếu lòng tin, hoài nghi.

CHƯƠNG 15

45. Tranh luận về sạch và dơ 915,10-20):

Cái dơ đáng quan tâm mà CGS nói đến là gì?

– Đó là những ý định xấu xa trong tâm hồn của con người. Từ đó phát xuất tội lỗi.

46. CGS chữa con gái người đàn bà Canaan (15,21-28):

a. CGS nói với người đàn bà Canaan: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó”. Tại sao CGS nói thế?

– Vì Ngài muốn thử thách đức tin của bà.

b. Người đàn bà Canaan dạy chúng ta bài học gì?

– Bài học của đức tin.

CHƯƠNG 16

47. Men biệt phái (16,5-12):

a. Men biệt phái mà CGS nói đến là gì?

– Đó là giáo lý sai lạc và đời sống giả hình của họ.

b. CGS cảnh báo các môn đệ điều gì?

– Đừng để bị ảnh hưởng bởi men biệt phái, đó là lối sống giả hình.

48. Phêrô tuyên xưng đức tin (16,13-20):

a. Ông Phêrô tuyên xưng đức tin ở đâu?

– Xêdarê Philípphê.

b. Phêrô tuyên xưng thế nào?

– Ông nói: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống“.

c. CGS trao chìa khoá cho Phê-rô nghĩa là gì?

– Trao quyền.

49. CGS báo cuộc thương khó (16,21-23):

a. Trong Tin mừng, có mấy lần CGS báo về cuộc thương khó?

– 3 lần.

b. Nội dung là gì?

– Ngài phải bị giết chết rồi phục sinh.

50. Điều kiện theo CGS (16,24-28):

CGS mời gọi người môn đệ vác thập giá theo Chúa. “Vác thập giá” nghĩa là gì?

– Nghĩa là bước theo con đường của Chúa, con đường khổ giá. Con đường khổ giá của mỗi người là những thử thách trong cuộc sống.

CHƯƠNG 17

51. CGS biến hình (17,1-8):

a. CGS biến hình ở đâu?

– Trên núi Tabor.

b. CGS mang theo các môn đệ nào?

– Phêrô, Gioan và Giacôbê.

c. Có ai hiện ra đàm đạo với CGS?

– Môsê và Êlia.

d. Tiếng từ trời là của ai? và nói điều gì?

– Đó là tiếng của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói về CGS: “Đây là Con Yêu dấu của Ta. Hãy vâng nghe Lời Người“.

52. Câu hỏi về Êlia (17,9-13):

CGS nói với các môn đệ là Êlia đã đến rồi. Êlia mà CGS nói đến là ai?

  – Đó là Gioan Tẩy Giả.

53. Chữa đứa bé bị kinh phong (17,14-22):

Các môn đệ không thể chữa khỏi cho đứa bé bị kinh phong (do ma quỷ). Họ thiếu những điều kiện nào?

– 3 điều kiện này: Lòng tin, ăn chay và cầu nguyện.

54. Nộp thuế (17,24-27):

a. CGS có buộc phải nộp thuế cho đền thờ không? Tại sao?

– Không, vì là Con Thiên Chúa, là người nhà. Đền thờ là nhà Cha của Ngài.

b. CGS bảo Phêrô làm gì để nộp thuế?

– Đi câu cá để lấy đồng tiền để nộp thuế.

c. CGS bảo Phêrô nộp thuế cả cho Ngài. Việc làm này dạy ta bài học gì?

– Có những việc chúng ta được phép làm nhưng không nên làm vì khi làm thì gây cớ vấp phạm cho người khác.

CHƯƠNG 18

55. Đức khiêm nhường (18,1-4):

CGS dạy hãy trở nên như trẻ nhỏ để vào nước trời. Trở nên như trẻ nhỏ nghĩa là gì?

– Đó là khiêm nhường, tin tưởng và sống nương tựa vào Chúa.

56. Sự từ bỏ (18,8-11):

CGS dạy: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt…”. CGS muốn dạy điều gì?

– Phải biết hy sinh những gì có thể gây tội để được vào Nước Trời.

57. Con chiên lạc (18,11-14):

Con chiên lạc là những anh em bị sa ngã. CGS dạy chúng ta phải làm gì với những anh em này?

– Cần phải có thái độ khoan dung, tha thứ và tìm cách để giúp họ trở lại cộng đoàn.

58. Sửa lỗi anh em (18,15-18):

a. CGS dạy sửa lỗi anh em theo tiến trình nào?

– Sửa lỗi gồm 3 bước: Cá nhân với cá nhân; Nhóm nhỏ với cá nhân; mang ra cộng đoàn.

b. Tiêu chuẩn sửa lỗi anh em là gì?

– Đó là bác ái, nhằm cứu vãn và xây dựng.

59. Hiệp thông trong cầu nguyện (18,19-20):

Hai điều cần thiết trong cầu nguyện chung mà CGS dạy là gì?

– Tâm đầu ý hiệp.

– Nhân danh CGS.

60. Tha thứ (18,21-35):

CGS dạy phải tha bảy mươi lần bảy nghĩa là gì?

– Nghĩa là tha thứ luôn luôn.

CHƯƠNG 19

61. Câu hỏi về ly dị (19,1-9):

CGS dạy gì về hôn nhân?

– Luật hôn nhân phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải do Môsê.

– Ý định của Thiên Chúa là hôn phân không bao giờ bị phá huỷ.

62. Người thanh niên giàu có (19,16-22):

Anh thanh niên muốn nên hoàn thiện, nhưng tại sao anh không đạt được?

– Anh chưa dứt khoát vì lòng anh còn dính bén của cải.

63. Người giàu có khó giàu nước trời (19,23-26):

CGS dùng hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim để diễn tả người giàu có khó giàu nước trời. Tại sao?

– Vì người ta dễ bị cám dỗ chạy theo và tôn thờ vật chất.

CHƯƠNG 20

64. Dụ ngôn thợ làm vườn nho (20,1-16):

Ông chủ trả lương cho người làm công nói lên điều gì về Thiên Chúa?

– Thiên Chúa công bình và hết sức rộng lượng.

65. Bà mẹ của Gioan và Giacôbê (20,20-23):

a. Bà xin CGS điều gì cho hai đứa con?

– Đứa được ngồi bên phải và đứa bên trái của CGS.

b. CGS nói đến chén đắng. Chén đắng nghĩa là gì?

– Chén đắng là cuộc thương khó của Ngài. Uống chén đắng là thông phần đau khổ với Ngài.

66. Ai làm lớn phải phục vụ (20,24-28):

Với CGS, người làm lớn là người thế nào?

– Là người phục vụ người khác.

CHƯƠNG 21

67. CGS vào thành Giêrusalem (21,1-11):

CGS cởi lừa vào thành nói lên điều gì?

– Đây là hình ảnh của một vị vua khiêm nhu và hoà bình.

68. Đánh đuổi những người buôn bán (21,12-17):

a. Tạo sao CGS nổi giận với những người buôn bán trong đền thờ?

– Vì họ biến đền thờ thành nơi buôn bán.

b. Tâm hồn chúng ta là đền thờ CTT. Chúa sẽ nổi giận khi đền thờ chúng ta bị ô uế. Điều gì làm cho đền thờ chúng ta ra ô uế?

– Đó là tâm hồn đầy ghen ghét, thù hận và tội lỗi.

69.  Dụ ngôn hai người con (21,28-32):

Qua dụ ngôn này, đâu là người con lý tưởng của Thiên Chúa mà CGS muốn dạy chúng ta?

– Đó là đứa con chấp nhận mệnh lệnh của Chúa và thực thi mệnh lệnh ấy.

70. Dụ ngôn tá điền sát nhân (21,33-45):

Các tá điền sát nhân trong dụ ngôn này là ai?

– Đó là giới lãnh đạo Do thái.

CHƯƠNG 22

71. Dụ ngôn tiệc cưới (22,1-14):

Cần có y phục lễ cưới để dự tiệc cưới. Tiệc cưới và y phục lễ cưới nghĩa là gì?

– Tiệc cưới: Ám chỉ hạnh phúc đời đời.

– Y phục lễ cưới: Là đời sống đức tin. Phải sống đời sống đức tin chúng ta mới được vào Nước Trời.

72. Nộp thuế cho Xêda (22,15-22):

CGS nói: “của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa” nghĩa là gì?

– Nghĩa là hãy chu toàn bổn phận với chính quyền nhưng cũng phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa.

73. Kẻ chết sống lại (22,23-33):

a. Nhóm biệt phái và nhóm Sađốc nhóm nào tin có sự sống lại?

– Biệt phái tin. Sađốc không tin.

b. CGS dạy gì về sự sống lại?

– Ngài xác định rằng có sự sống lại.

– Đó là sự sống vĩnh cửu, người ta sống như thiên thần.

74. Điều răn trọng nhất (22,34-40):

Điều răn trọng nhất là gì?

– Là yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức… và yêu tha nhân như chính mình.

CHƯƠNG 23

75. Sự giả hình của biệt phái và kinh sư (23,1-12):

Đâu là sự giả hình của biệt phái và kinh sư?

– Họ nói mà không làm; Họ làm để đề cao mình.

76. Quở trách thành Giêrusalem (23,37-39):

Đâu là tội của Israel và của Giêrusalem mà CGS quở trách?

– Giết các ngôn sứ.

– Từ chối Thiên Chúa.

CHƯƠNG 24-25

77. Dụ ngôn các cô trinh nữ (25,1-13):

a. Có mấy cô khôn ngoan và mấy cô khờ dại?

– 5 cô khôn ngoan và 5 cô khờ dại.

b. Thế nào là khôn ngoan?

– Đó là luôn sẵn sàng, chuẩn bị đầy đủ chờ Chúa đến.

78. Dụ ngôn nén bạc (25,14-30):

a. Tiêu chuẩn mà ông chủ xét xử các đầy tớ là gì?

– Đó là phải biết sinh lợi cho chủ.

b. Các nén bạc của chúng ta là gì? Chúa muốn gì nơi chúng ta?

– Đó là các khả năng Chúa ban. Chúa muốn chúng ta sinh lợi các nén bạc ấy: phục vụ Chúa và tha nhân.

79. Phán xét (25,31-46):

a. Chiên và dê tượng trưng cho ai?

– Chiên tượng trưng cho người lành; dê tượng trưng cho kẻ dữ.

b. Tiêu chuẩn Chúa phán xét là gì?

– Là tình yêu thương mà chúng ta dành cho tha nhân khi còn sống.

CHƯƠNG 26-27

80. CGS chịu thương khó trong thời vị thượng tế nào?

– Caipha.

81. Cuộc thương khó diễn ra trong dịp lễ gì của người Do thái? Ý nghĩa gì đối với CGS?

– Lễ Vượt Qua.

– Ý nghĩa: CGS là Chiên Vượt Qua hy sinh mạng sống để cứu nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi.

82. Xức dầu (26,6-13):

a. Ở đâu?

– Làng Bêtania, cách Giêrusalem 5km, tại nhà ông Simon cùi.

b. Ai xức dầu cho CGS?

– Maria, em của Mátta.

c. Xức dầu cho CGS mang ý nghĩa gì?

– Hành động ám chỉ mai táng cho CGS.

83. Ai nộp CGS? Người Do thái trả cho người này bao nhiêu tiền?

– Giuđa Iscariốt, một trong 12 tông đồ.

– Người Do thái trả cho ông 30 đồng.

84. Tiệc ly (26,17-35):

a. Dấu hiệu chứng tỏ người mà CGS báo là sẽ nộp Ngài?

– Kẻ giơ tay chấm chung đĩa với Ngài. Đó là Giuđa.

b. Phêrô phản ứng thế nào khi CGS báo rằng ông sẽ chối Chúa? Kết quả ra sao?

– Khẳng định mạnh mẽ dù chết cũng không bỏ Chúa.

– Kết quả: Đúng như CGS nói. Ông đã chối thầy.

85. Trong vườn cây dầu và bị bắt (26,36-56):

a. Vườn cây dầu còn gọi là gì?

– Ghếtsêmani hay núi Ôliu.

b. CGS cầu nguyện với Chúa Cha điều gì?

  – Xin Chúa Cha cất chén đắng nhưng luôn theo ý Chúa Cha.

c. CGS kêu gọi các môn đệ điều gì?

– Tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ.

d. Giuđa dùng dấu hiệu gì để cho quân lính bắt CGS?

– Nụ hôn.

e. Một môn đệ bênh vực CGS, ông làm gì? Môn đệ ấy tên gì?

– Rút gươm chém đứt lỗ tai tên đầy tớ vị thượng tế. Đó là Phêrô.

f. Phản ứng của các môn đệ khác thế nào?

– Bỏ chạy.

86. CGS ra toà (26,57-27,26):

a. CGS ra toà 2 lần. Ngài bị xử án bởi ai?

– Một lần bởi hội đồng do thái; lần thứ hai bởi Philatô, tổng trấn Rôma.

b. Giới lãnh đạo do thái tố cáo CGS tội gì trước Philatô?

– Xúi dân nổi loạn, ngăn cản dân nộp thuế và tự xưng là vua.

c. Dân chúng hô hào kết án CGS nhưng xin tha cho ai? Người này làm nghề gì?

– Baraba, một tên cướp.

d. Kết thúc thế nào?

– Philatô theo ý kiến của giới lãnh đạo Do thái: kết án CGS và tha Baraba.

87. Trên đường lên núi sọ (27,32-56):

a. Ai vác thập giá đỡ CGS?

– Simon, người Kyrênê.

b. Ai bị đóng đinh chung với CGS?

– Hai tên trộm cướp.

c. Sau khi CGS tắt thở, viên sĩ quan Rôma cùng các tên lính nói gì?

– Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa.

d. Ai xin xác CGS và mai táng Ngài?

– Giuse người Arimathê (cùng với Nicôđêmô).

e. Các thượng tế và biệt phái đề nghị điều gì với Philatô? Tại sao?

– Xin cho người canh mộ CGS.

– Lý do: Sợ các môn đệ đến ăn cắp xác CGS và hô hào Ngài sống lại.

CHƯƠNG 28

88. Ngôi mộ trống (28,1-8):

a. Ai ra mộ từ sáng sớm? Đó là ngày nào?

– Maria Mácđala và bà Maria khác.

– Đó là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần (sáng Chúa nhật).

b. Sứ thần bảo hai người phụ nữ điều gì?

– CGS đã sống lại và đi đến Galilê trước.

– Trở về báo cho các môn đệ biết.

89. Các thượng tế lừa đảo (28,11-15):

Các thượng tế làm gì khi lính canh báo tin không thấy xác CGS?

– Họ trả tiền cho lính và bảo họ nói rằng các môn đệ CGS đến lấy trộm xác của Ngài.

90. CGS hiện ra ở Galilê (28,16-20):

CGS nói gì với các môn đệ?

– Ra lệnh cho các ông đi rao giảng.

– Hứa sẽ ở với các ông cho đến tận thế.