Friday, March 29, 2024
spot_img
Home Blog

Dẫn lễ Thiếu nhi | CN PS & CN 2 PS

CHÚA NHẬT PHỤC SINH

Dẫn vào Thánh lễ 

Viếng mộ Chúa Gio-an chạy trước
Nhưng Phê-rô dấn bước vào đầu
Đời ta kẻ trước người sau
Chạy đua tới đích mai sau đời mình
Sống lành sẽ được phục sinh
Bình an hưởng phúc trường sinh với Người. 

Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật Phục sinh: Đức Kitô đã sống lại thật (Ga 20,1-9).

Tin mừng Thánh Gioan tả lại cảnh Maria Ma-đa-lê-na đi ra mồ Chúa khi trời vừa sáng, và bà hốt hoảng trở về báo tin cho Phêrô và Gioan rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Ga 20, 1-2). Khi Phêrô và Gioan đến mồ, vào trong, nhìn kỹ nơi an táng Chúa, Gioan đã thấy và đã tin. Chúa Giêsu đã sống lại thật như lời Ngài đã báo trước.

Dâng Thánh lễ hôm nay, mời các bạn thiếu nhi hãy hát vang bài ca “Al-le-lu-ia”, ca ngợi Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng ta bằng máu của Ngài và làm cho chúng ta trở thành những người con yêu dấu của Chúa Cha. Mời cộng đoàn đứng.

Bài đọc 1 (Cv 10,34a.37-43)
Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã minh chứng cho người Do Thái rằng: Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Ai tin vào Ngài và chịu phép rửa, người ấy sẽ được cứu độ.

Bài đọc 2 (Cl 3,1-4)
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê khẳng định: Chúa Giêsu đã sống lại; chúng ta cũng sẽ sống lại với Ngài trong đời sống mới và cùng Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang.

Ca tiếp liên (Mời cộng đoàn ngồi)
Đây là bài ca, ca ngợi Con Chiên Vượt Qua. Đức Kitô đã giao hòa chúng ta với Chúa Cha. Bài ca này cũng làm nổi bật hình ảnh Maria Ma-đa-lê-na, người nữ đầu tiên loan báo Tin mừng Phục sinh.

Lời nguyện chung
Chủ tế: Chúng con thiếu nhi thân mến, Chúa Giêsu đã sống lại thật như lời Kinh Thánh đã loan báo. Cùng hòa chung niềm vui với Giáo hội, chúng ta hãy sốt sắng nguyện xin. 

1. Tin mừng Phục sinh là tin vui cho toàn thể nhân loại. Xin cho đại gia đình Giáo hội/ nhận được niềm vui của Chúa Phục Sinh, và đem niềm vui ấy đến với mọi người. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2. Ngày nay, nhiều người trên thế giới còn nghi ngờ về cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Xin cho họ sớm nhận được ánh sáng phục sinh soi chiếu/ qua các Kitô hữu trong Giáo hội. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3. Những người đầu tiên khi gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh đã trở thành những chứng nhân rao giảng Tin mừng. Xin cho các bạn trẻ Công giáo/ luôn là những chứng nhân Tin mừng Phục sinh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4. Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ nhiều lần để củng cố niềm tin cho các ông. Xin cho cộng đoàn hiện diện trong Thánh lễ hôm nay/ được đầy tràn niềm tin phục sinh trong tâm hồn. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xưa Chúa hiện ra và ở cùng các môn đệ. Xin soi lòng mở trí mỗi người chúng con, để chúng con tin và nhận ra Chúa Phục Sinh trong sinh hoạt của cuộc sống thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
LỄ KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Dẫn vào Thánh lễ

Tô-ma thấy Chúa mới tin
Còn ta có phúc gấp nghìn lần hơn
Nếu ta tin thật Chúa luôn
Mắt tuy chẳng thấy mà lòng vẫn tin.

Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh: Chúa Phục Sinh củng cố niềm tin của các môn đệ
(Ga 20,19-31).

Người môn đệ được nhắc đến nhiều nhất trong bài Tin mừng hôm nay là Tôma. Ông chẳng những không ở cùng các môn đệ khi Chúa Giêsu hiện ra, mà còn dám nói lời thách thức (Ga 20,25). Tám ngày sau, trước mặt Chúa Giêsu, ông đã tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

Dâng Thánh lễ hôm nay, xin Chúa Giêsu Phục Sinh đến với mỗi người trong chúng ta, để nâng đỡ niềm tin, gia tăng ơn thánh và giúp chúng ta chu toàn nhiệm vụ hằng ngày của mình. Mời cộng đoàn đứng.

Bài đọc 1 (Cv 4,32-35)
Sách Công vụ Tông đồ phác họa sinh hoạt của cộng đoàn các Kitô hữu đầu tiên thật đẹp: Họ một lòng một ý với nhau, sống yêu thương nhau và để mọi sự mình có làm của chung.

Bài đọc 2 (1Ga 5,1-6)
Thư thứ nhất của Thánh Gioan nhắc nhở các Kitô hữu, những người được Thiên Chúa sinh ra, phải sống yêu thương nhau. Đó là dấu hiệu chứng tỏ họ yêu mến Thiên Chúa; mà ai yêu mến Thiên Chúa, thì chiến thắng được tội lỗi thế gian.

Lời nguyện chung
Chủ tế: Chúng con thiếu nhi thân mến, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin của Tôma vào việc Chúa sống lại; ông đã tin và tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa. Chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện.

1. Chúa Giêsu đã trao cho Giáo hội nhiệm vụ dẫn dắt đàn chiên của Chúa. Xin cho Giáo hội luôn là điểm tựa vững chắc/ củng cố niềm tin của toàn thể dân Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2. Có nhiều người mang danh Kitô hữu, nhưng còn nghi ngờ việc Chúa Giêsu sống lại. Xin Chúa Giêsu Phục Sinh biến đổi họ/ trở nên những chứng nhân Tin mừng Phục sinh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3. Đời sống của các Kitô hữu đầu tiên là chứng tá quan trọng cho đời sống bác ái cộng đoàn. Xin cho những người tham gia hoạt động tông đồ/ sống hiệp thông với giáo xứ và với nhau, để hiệp nhất xây dựng Giáo hội. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4. Các Tông đồ là những người đầu tiên nói về sự phục sinh của Chúa cho Tôma. Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng ta/ trở nên những người biết quan tâm nâng đỡ niềm tin cho tha nhân. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thật bao dung và nhẫn nại với Tôma khi củng cố đức tin cho ông. Xin làm cho đức tin yếu kém của chúng con thêm vững mạnh, để chúng con xác tín niềm tin vào sự sống lại và sẵn sàng tuyên xưng niềm tin phục sinh giữa mọi người. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

[15]Khiêm nhường đến tột cùng

LỜI CHÚA

“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa,
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.”
(Philípphê 2, 6-7)

TĨNH NGUYỆN

Trong cuộc sống, khi tiếp xúc với những người xung quanh, bạn thích gần gũi với những người khiêm nhường hay những người kiêu ngạo? Bạn thích ở gần những người biết sống vì lợi ích người khác hay là những người bắt người khác phải sống cho lợi ích của họ? Chắc hẳn là bạn cũng thích ở gần với những người sống khiêm nhường và hy sinh vì người khác đúng không?

Lời Chúa trong Philipphê 2,6-7 vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về sự khiêm nhường và hy sinh của Đức Giêsu Kitô. Vốn dĩ là Thiên Chúa, Ngài lại hạ mình xuống, trở thành con người, chịu đựng mọi nhục hình và khổ đau để cứu chuộc nhân loại. Ngài quả thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta về lòng khiêm nhường và sự hy sinh.

Đức Giêsu đã từ bỏ vinh quang Thiên Chúa, từ bỏ ngai vàng và quyền lực tối cao, để trở thành một con người bình thường. Ngài sinh ra trong một máng cỏ hèn mọn, sống một cuộc đời giản dị và chịu nhiều thử thách. Ngài đã từ bỏ tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa để đến với con người, để chia sẻ kiếp sống của chúng ta.

Hơn nữa, Ngài không chỉ trở thành con người, mà còn mặc lấy thân nô lệ. Ngài phục vụ con người, chữa lành bệnh tật, giải thoát họ khỏi ách áp bức của ma quỷ và tội lỗi. Ngài thậm chí còn chịu chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.

Đức Giêsu đã sống như một người trần thế, trải qua mọi cung bậc cảm xúc của con người: vui, buồn, yêu thương, tức giận… Ngài hiểu rõ những yếu đuối và khổ đau của con người, bởi vì Ngài đã từng trải qua tất cả.

Lời Chúa trong Philipphê 2,6-7 dạy cho chúng ta bài học về sự khiêm nhường và hy sinh. Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa tối cao, đã hạ mình xuống để phục vụ con người, thì chúng ta là ai mà lại kiêu ngạo và tự cao? Chúng ta cần học theo gương Đức Giêsu, biết khiêm nhường hạ mình, sẵn sàng hy sinh bản thân để phục vụ người khác.

QUYẾT TÂM THỰC HÀNH

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần Thánh | Năm B

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN THÁNH – NĂM B

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

LỜI CHÚA: Mc 11, 1-10

Khi các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con ‘Sao các ông làm thế?’, thì hãy nói rằng: ‘Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây'”. Hai môn đệ ra đi và gặp lừa con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: “Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?” Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Đavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Đó là lời Chúa.

SUY NIỆM:

Lên Giêrusalem là thuật ngữ nói về việc Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, và trong nghĩa nào đó, các môn đệ cũng đi chung con đường lên Giêrusalem với Thầy Giêsu.

Theo tường thuật của Luca, Chúa Giêsu là vị thủ lãnh theo khuôn mẫu của quân đội Rôma, vì Ngài luôn đi trước. Việc đi trước cho thấy Ngài hoàn toàn hiểu biết và chủ động trong chương trình của Chúa Cha.

Hình ảnh tung hô của dân chúng hôm nay là báo trước vinh quang của Đức Giêsu khi chấp nhận đi vào cuộc khổ nạn, chính là con đường thánh ý của Chúa Cha.

Khởi đầu Tuần Thánh, Giáo hội mời gọi Kitô hữu phải bước đi theo Đức Kitô trên con đường khổ nạn thì mới được đón nhận vinh quang phục sinh với Ngài.

CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con tham dự đầy đủ, trọn vẹn những nghi thức trong Tuần Thánh, như dấu chỉ cùng bước đi với Đức Giêsu Kitô trên con đường thập giá. Khi thông hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa, xin cho chúng con được chia sẻ vinh quang Phục Sinh với Người.

THỨ HAI TUẦN THÁNH

LỜI CHÚA: Ga 12, 1-11

Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà. Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: “Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?” Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: “Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu”.

Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại. Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.    

SUY NIỆM:

Mỗi người một thái độ khác nhau, nhưng tất cả đều thể hiện mối tương quan giữa họ với Chúa Giêsu.

Cả 3 chị em Martha, Maria và Ladarô đều thân tình đến mức trở thành người nhà với Chúa Giêsu và các môn đệ. Thầy trò Chúa Giêsu thường xuyên lui tới ngôi nhà này để nghỉ ngơi, ăn uống, chia sẻ những mệt mỏi trên bước đường rao giảng.

Vì lẽ đó : “Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người”.

Người đặc biệt trong trang Tin mừng hôm nay chính là Maria, vì cô có hành động lạ thường: “Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau”.

Hành động này khiến nhiều người phản ứng, đặc biệt là Giuđa Iscariô vì lẽ ông có một cái nhìn khác không cùng dòng chảy yêu thương với những người thân của Chúa Giêsu. Chính Gioan đã khẳng định: “Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó.”

Còn Chúa Giêsu thì thấu suốt mọi bí ẩn, sâu xa hơn nữa, Ngài còn chấp nhận hành động tiên tri của Maria: “Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta”.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, rất gần với cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ nhân loại. Mỗi người chúng con đều có những tâm tình, những ý hướng khác nhau. Xin cho chúng con biết quy hướng tất cả mọi sự về tình yêu của Chúa đã dành cho chúng con qua chính cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô.

THỨ BA TUẦN THÁNH

LỜI CHÚA: Ga 13, 21-33. 36-38

Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: “Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: “Hỏi xem Thầy nói về ai đó”. Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: “Thưa Thầy, ai vậy?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó”. Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: “Con tính làm gì thì làm mau đi”. Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối. Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: “Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: ‘Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được’, nay Thầy cũng nói với các con như vậy”.

Simon Phêrô hỏi Người: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy”.

Phêrô thưa lại: “Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần”.   

SUY NIIỆM:

Bối cảnh Giuđa bước ra khỏi bàn tiệc là đêm tối: “Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối.”

Sự dữ là do người ta chấp nhận đứng về phía bóng tối hoặc bước vào bóng tối, hay tệ hại hơn là sống trong bóng tối.

Bóng tối của Giuđa chính là những toan tính cho riêng mình chứ không sống theo đường lối Chúa.

Bóng tối của thế giới hôm nay chính là sự ích kỷ chỉ nghĩ về lợi ích cá hoặc nhóm nhỏ, thậm chí là quốc gia để sẵn sàng gây nên chiến tranh, chết chóc.

Bóng tối của xã hội hôm nay là sự vô cảm, ngay cả với những thứ tình cảm thiêng liêng như cha mẹ, anh em ruột thịt hoặc người thân khiến người ta trở nên lạnh lùng như robot.

Giuđa bước vào bóng tối và đã chết. Nhân loại nếu bước vào bóng tối của sự dữ chắc chắn cũng sẽ chết. Nhưng ánh sáng Phục Sinh của Đức Giêsu đã phá tan mọi bóng tối.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con từ khước sự an toàn của bóng tối để không bao giờ bước vào giới hạn của sự mờ ám. Và lạy Chúa, nếu lỡ chân con đã đặt đến bến bờ sự chết của bóng tối, thì xin cho con mạnh dạn quay trở lại với ánh sáng Phục Sinh của Đức Giêsu.

THỨ TƯ TUẦN THÁNH

LỜI CHÚA: Mt 26, 14-25

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?” Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.

Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?” Chúa Giêsu đáp: “Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông”. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.

Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: “Thưa Thầy, có phải con không?” Người trả lời: “Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”

Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: “Thưa Thầy, có phải con chăng?” Chúa đáp: “Đúng như con nói”.  

SUY NIỆM:

Có lẽ Giuđa không muốn gây nên cái chết đau thương cho Thầy mình, nhưng chắc chắn ông muốn Thầy mình đi trên con đường ông vẽ ra.

Chương trình của Thiên Chúa Cha dành cho Chúa Giêsu là đến thế gian này cứu độ con người vì họ đã mất đi hạnh phúc thuở ban đầu. Cũng có lúc Ngài không muốn làm theo chương trình của Chúa Cha, nhưng vì yêu mến Cha trọn vẹn nên Ngài chẳng những bằng lòng mà còn vui lòng nữa.

Môn đệ phải là những người theo Thầy, nghe Thầy và làm như Thầy. Giuđa muốn theo nhưng lại không nghe và càng không làm như Thầy… nên ông đã gây nên hậu quả là trở thành kẻ phản bội. Sự phản bội của Giuđa chính là không cùng đi trên con đường với Thầy Giêsu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, Mùa Chay đã sắp kết thúc, nhưng con đã thanh luyện được con người của con như thế nào? Nghĩa là tâm trí con đã hướng về Chúa, ý chí con đã thuần phục thánh ý Chúa và thân xác con nhẹ nhàng đến mức nào? Xin Chúa tiếp tục uốn nắn và quy hướng mọi sự của con về Chúa.

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

LỜI CHÚA: Ga 13, 1-15

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.    

SUY NIỆM:

Một ngày đầy tâm tình của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người để cứu độ con người, vì Ngài biết: “đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha”, nhưng “Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian.”

Vì lẽ đó Ngài muốn truyền đạt tất cả những ưu tư, những điều cốt lõi mà Ngài đã giảng dạy, đã thực hành và mong muốn các môn đệ sống như  là sự hiện diện và sống còn của con đường mang tên Giêsu.

Hành động cúi xuống rửa chân cho các môn đệ chính là bài học yêu thương- phục vụ. Yêu thương sẽ dẫn đến phục vụ, và phục vụ để kiện toàn tình yêu thương.

Chính vì thế môn đệ của Chúa Giêsu ở mọi thời đại phải là những con người yêu thương- phục vụ, vì đó là điều căn bản của đạo Công giáo, là cốt lõi giáo lý của Chúa Giêsu, và nét đẹp của người môn đệ.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, đôi khi vì nhiều lý do khiến chúng con chưa thể kiện toàn lề luật Chúa trong cuộc đời, nhưng xin cho chúng con dù như thế nào vẫn nhớ và giữ được bài học căn bàn mà Chúa Giêsu đã dạy chúng con, đó là bài học yêu thương- phục phục.

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

LỜI CHÚA: Ga 18, 1 – 19, 42

“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”…

SUY NIỆM:

Có nhiều nhân vật trong sự thương khó của Đức Giêsu. Mỗi người một tâm tình, một ý hướng khác nhau. Điều đó cho chúng ta thấy sự hiệp hành là cùng đi với nhau, nhưng phải cùng hướng về một mục đích.

Những phụ nữ Giêrusalem, bà Vêrônica, ông Simon, môn đệ Gioan, và nhất là Đức Maria là những người “hiệp hành” với Chúa Giêsu. Có người ngay từ đầu như Đức Maria, có người được mời gọi như Gioan, có người cùng đi vì tình cảm như những phụ nữ hay bà Vêrônica, có người chỉ là tình cờ cùng đi với Chúa như ông Simon qua việc vác đỡ thánh giá với Ngài.

Đặc biệt có người chỉ hiệp hành với Chúa trong ý tưởng ở những thời khắc cuối cùng của cuộc đời, đó là tên trộm cùng chịu đóng đinh với Chúa.

Nhưng kết quả chung cuộc cho những người cùng hiệp hành với Chúa Giêsu chính là đạt đến cùng đích của cuộc đời mình: hạnh phúc tròn đầy, viên mãn trong nhà Cha.

Trong tiến trình hiệp hành, có những niềm vui nỗi buồn, có đau khổ hạnh phúc… nhưng người môn đệ được mời gọi luôn luôn vác lấy thánh giá để cùng đi với Thầy, vì nếu con đường theo Đức Giêsu mà không có thánh giá là con đường giả dối do ma quỷ bày ra

CẦU NGUYỆN:

“Lạy Chúa, xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.”

THỨ BẢY TUẦN THÁNH

LỜI CHÚA: Lc 24, 1-12

Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn. Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu. Đang khi các bà còn ngơ ngác không hiểu việc đó, thì có hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói. Các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất, thì hai người lên tiếng bảo: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại, các bà hãy nhớ lại Người đã nói với các bà thế nào khi Người còn ở xứ Galilêa. Người đã nói: Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Và các bà nhớ lại những lời Người đã nói.

Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác. Các bà đó là Maria Mađalêna, Gioanna, Maria mẹ Giacôbê; và những người nữ khác cùng đi với họ cũng nói như vậy với các tông đồ. Nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin. Dầu vậy Phêrô cũng đứng dậy chạy ra mồ, nhưng khi cúi xuống nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm nằm đó và ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự đã xảy ra.  

SUY NIỆM:

Nếu Chúa Giêsu không sống lại, thì quả thật chúng ta là những kẻ mù quáng. Nhưng không, Chúa Giêsu đã sống lại thật qua sự kiện ngôi mồ trống; những lần hiện ra của Chúa Giêsu, điển hình như với các phụ nữ trong đoạn Tin Mừng hôm nay; và nhất là những cuộc đời biến đổi.

Việc phục sinh của Chúa Giêsu không phải là “tình cờ” những phụ nữ và các môn đệ phát hiện ra, nhưng nếu những ai chăm chỉ với Lời Chúa thì sẽ thấy đó là ứng nghiệm những gì các tiên tri và chính Chúa Giêsu đã loan báo.

Bỏ qua tất cả mọi sự để nhìn thấy một điều duy nhất còn đọng lại trong trang Tin mừng hôm nay, đó là những ai yêu nhiều sẽ được thấy nhiều.

Cái thấy ở đây ngược lại với cái thấy của ông Adam và bà Evà sau khi họ ăn trái cấm: “Mắt họ liền mở ra” để thấy những điều sai trái của mình. Còn cái thấy ở đây là thấy được vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, quyền lực để có thể xua đuổi ma quỷ ra khỏi vườn địa đàng năm xưa và ra khỏi thế gian này.

CẦU NGUYỆN:  

 Lạy Chúa, xin cho con yêu Chúa hết lòng để nổ lực trong suốt cuộc đời bước theo Chúa một cách  sát gót, để con được chiêm ngưỡng vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Sống Lời Chúa mỗi ngày | CN V MC | Năm B

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V MÙA CHAY NĂM B

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Ga 12, 20-33

Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: “Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu”. Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.

SUY NIỆM:

Những lời Chúa Giêsu rao giảng, những việc Ngài làm đã trổ sinh hoa trái, cụ thể nơi những người Hy Lạp vì họ đã chủ động đến tìm gặp Chúa Giêsu. Và dĩ nhiên, sâu xa của việc tìm gặp Chúa Giêsu là vì họ tin vào Thiên Chúa là Cha yêu thương. Cho nên Chúa Giêsu đã làm cho Chúa ha được tôn vinh là thê.

Sống trọn vẹn ý Cha, và trong mọi sự muốn làm cho Danh Thánh Cha được cả sáng. Đó là thân phận hạt lúa mì của Chúa Giêsu. Vì để làm sáng Danh Cha, Ngài đã phải chấp nhận chết đi.

Ngày hôm nay khi việc sống đạo dễ dãi hơn, thân phận hạt lúa mì của người môn đệ càng khó khăn hơn, vì họ bị đặt trước sự thỏa hiệp hằng ngày.

Ví dụ, việc đi lễ quá thuận tiện, nhưng vì công việc làm ăn, người ta nói không sao đâu, Chúa biết hết mà! Thế là người ta bỏ lễ ngày Chúa Nhật; Các bạn trẻ quá dễ dãi trong việc xác thịt, vì người đời cho rằng không gì là sai trái, nên dần dà người Công giáo cũng quên đi điều răn thứ Sáu…

Thân phận hạt lúa mì là dám chấp nhận chết đi vì lý tưởng cao cả của mình. Đó vẫn là đòi hỏi Tin Mừng ngày hôm nay trước những sự dễ dãi của thế gian.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết chết đi mỗi ngày với những đam mê, những lôi kéo của thế gian, hầu làm chứng cho sự thánh thiện của Chúa.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Ga 8, 1-11

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

SUY NIỆM:

Người ta đặt Chúa Giêsu trước một cái bẫy quá tinh vi. Và điều tệ hại hơn, người ta hả hê khi phát hiện người phụ nữ phạm tội ngoại tình, vì chính chị sẽ trở thành dụng cụ để tiêu diệt người khác.

Thiên Chúa không bao dung với tội, nhưng Ngài yêu thương kẻ có tội. Đó là sự thật khiến cho thân phận tội lỗi của con người có nơi ẩn núp, cứu chữa và phục hồi.

Vì sự bao dung của Chúa Giêsu mà người phụ nữ ngoại tình hôm nay tránh được án phạt của người đời, và nhất là sự bao dung đó kèm theo lời cảnh báo: “Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Chắc chắn một điều, tình yêu của Thiên Chúa đã phủ lấp mọi tội lỗi và còn là động lực để kẻ tội lỗi vươn lên. Chị sẽ sống cho một tình yêu và vì một tình yêu. Tình yêu tha thứ của Chúa Giêsu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết cảm nhận được ơn tha thứ nơi bí tích Giải tội để con có thể vươn lên mỗi ngày trong sự thánh thiện.

THỨ BA – 19/03 THÁNH GIUSE BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA

LỜI CHÚA: Mt 1, 16. 18-21. 24a

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

SUY NIỆM:

Công chính là luôn sống theo ý Chúa. Sự công chính của Giuse là muốn thể hiện thánh ý của Chúa qua việc yêu thương, tha thứ, không lên án người khác, không kết tội một ai, nhất là khi tội đó mình chưa biết hoàn cảnh của người ta một cách rõ rang.

Công chính là luôn làm theo những gì Chúa dạy. Sự công chính của Giuse là làm ngay điều Chúa truyền, không do dự, vì một khi có sự do dữ, ma quỷ sẽ xen vào công trình của Thiên Chúa.

Học được sự công chính của Giuse hôm nay để tôi cộng tác vào đời sống Giáo hội khi không dám kết án bất cứ một ai, và mau lẹ làm những gì mà tôi được Chúa đánh động.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con học được sự mạnh mẽ trong đời sống nội tâm như thánh cả Giuse để con có thể thực hiện lời Chúa dạy một cách quyết liệt, dứt khoát hơn.

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Ga 8, 31-42

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói “Các ngươi sẽ được tự do”?”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” Chúa Giêsu nói: “Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”.

SUY NIỆM:

Người Do Thái mong chờ Đấng Messia, Đấng giải thoát họ, nhưng khi Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến, họ không đón nhận, vì vậy họ cứ mãi làm nô lệ.

Sự giải phóng mà người Do Thái mong đợi theo nghĩa đen, để dân tộc họ được tự do, không còn bị lệ thuộc bởi đế quốc. Còn tự do Chúa Giêsu mang đến là giải phóng con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi và sự dữ.

Con người bị chế ngự bởi sự dữ, dẫn đến những đam mê, những hơn thua, ganh ghét cứ trói buộc họ khiến họ không thể vươn lên. Cũng chính vì những điều đó mà Chúa Giêsu đã bị giết chết.

Nhưng cái chết của Ngài lại mở ra một vùng trời mới, vùng trời tự do để con người không còn bị ràng buộc bởi bất cứ sự dữ nào, vì Chúa Giêsu đã tiêu diệt nó trên cây thập giá.

Tin vào Chúa Giêsu là bước đi trong tự do, đến với Thiên Chúa Cha để yêu và được yêu, vì đó là nhu cầu căn bản của con người; vì Thiên Chúa Tình Yêu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con đức tin mạnh mẽ để con luôn xác quyết vào ơn cứu độ của Chúa và sống trong tự do của Thánh Thần để con được giải phóng thật sự khỏi con người cũ, con người của những đam mê tội lỗi.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Ga 8, 51-59

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”. Người Do-thái lại nói: “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: “Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết”. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?”

Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng”.

Người Do-thái liền nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?” Chúa Giêsu trả lời: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”. Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu nói đến cái chết thiêng liêng, tức là không được hưởng nhan thánh Chúa, hay nói cách khác là sự xa lìa Thiên Chúa; còn người Do Thái thì nghĩ đến cái chết về phần xác, vì làm người ai cũng phải chết.

Chúa Giêsu đã đến để cứu con người khỏi cái chết đời đời, nghĩa là khỏi phải trầm luân do hậu quả của tội nguyên tổ. Rõ ràng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chiến thắng được sự chết, chiến thắng được ma quỷ.

Nhưng bởi vì Chúa Giêsu mang lấy thân phận con người nên người Do Thái không tin Ngài là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến. Họ mong chờ một Đấng Messia lạ lùng.

Thiên Chúa vẫn âm thầm từng ngày tác động nơi lý trí, ý chí và tự do của con người để họ có một sự biến đổi. Ai giữ lời của Chúa Giêsu thì họ sẽ có một sự đổi mới. Đó là một đời sống thánh thiện bằng việc buông bỏ những đam mê và dấn thân cho một tình yêu.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con được ơn sống lại về phần linh hồn mỗi ngày qua việc sám hối, trong khi đón nhận Bí tích Thánh Thể, và nhất là khi đến lãnh Bí tích Giải tội.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 10, 31-42

Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: “Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?”

Người Do-thái trả lời: “Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”.

Chúa Giêsu đáp lại: “Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: “Ta đã nói: các ngươi là thần”? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng “Ông nói lộng ngôn”, vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”.

Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: “Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả”. Và có nhiều kẻ tin Người.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu mời gọi người Do Thái nếu không chấp nhận những giáo lý của Ngài, thì hãy nhìn hành động của Ngài, hành động mà nhiều kẻ đã phải nhìn nhận: “Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả”.

Người ta nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu để ít nhất nhận ra Ngài không phải là con người bình thường. Một số người Do Thái đã phủ nhận tất cả, kể cả những hành động quyền năng của ngài để bảo vệ lợi ích chung của phe nhóm họ.

Người môn đệ Chúa Giêsu cũng không cần nói nhiều về giáo thuyết, nhưng hãy sống theo những gì Chúa Giêsu dạy. Người ta cần hành động hơn lời dạy;  và nếu người ta không tin thì chính hành động của chúng ta vẫn khẳng định chúng ta là ai.

Khi tham gia đời sống Giáo hội, người ra cần vượt qua những cái nhìn phàm tục, để thấy những giá trị siêu nhiên trong sự cộng tác của mình.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, có nhiều thái độ từ chối Chúa. Có lẽ chúng con không đến mức quyết liệt để từ khước Chúa, nhưng cũng thường khi từ chối Chúa “có điều kiện”, nghĩa là những khi vì hoàn cảnh cũng dễ chối Chúa. Xin cho chúng con cố gắng tuyên xưng Chúa trong mọi hoàn cảnh.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 11, 45-56

 Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: “Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta”. Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: “Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.

Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: “Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?” Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.

SUY NIỆM:

Rõ ràng chỉ vì lợi ích nhóm mà người Do Thái đã lên kế hoạch để thủ tiêu Ngài: “Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta”.

Như vậy người Do Thái có muốn tìm hạnh phúc đích thật  hay chỉ là hạnh phúc chóng qua ở đời này? Chắc chắn chỉ là hạnh phúc chóng qua được thể hiện qua những quyền lợi trong phe nhóm của họ.

Vì thế, cám dỗ lớn nhất của con người là chỉ thấy những cái trước mắt, chỉ tìm giá trị tự nhiên mà bỏ qua những điều sâu xa, những giá trị linh thánh.

Người Do Thái sống cùng thời với Chúa Giêsu, chứng kiến những dấu lạ Ngài làm, thường xuyên nghe lời giảng dạy của Chúa Giêsu còn như vậy, huống chi con người thời nay chỉ được nghe kể lại và sống bằng niềm tin…

Vì lẽ đó chúng ta phải thông cảm cho nhau, dìu dắt nhau, giúp nhau để sống đức tin cho tốt.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, Xin cho chúng con biết từ bỏ cái tôi cá nhân, óc phe nhóm để có thể tham gia đời sống Giáo hội bằng sự cộng tác nhiệt tình và chủ động. Vì chính cái tôi cá nhân và óc phe nhóm sẽ giết chết mọi nhiệt huyết trong con người.

[14] Làm việc không mệt mỏi

LỜI CHÚA

“Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.”
(Ga 5,17)

TĨNH NGUYỆN

Câu Lời Chúa: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5,17) được Đức Giêsu nói ra trong cuộc tranh luận với người Do Thái về việc chữa lành người què vào ngày Sabat. Lời tuyên bố này mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha, cũng như sứ mệnh cứu độ của Ngài.

1. Mối tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha

Câu nói này khẳng định mối tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha. Hai Ngôi vị tuy là hai nhưng lại là một, cùng chia sẻ một bản tính và hoạt động cứu độ. Thiên Chúa Cha không ngừng làm việc, và Đức Giêsu, là Con Một của Thiên Chúa, cũng tiếp tục công việc của Cha.

2. Sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu

Công việc của Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu là gì? Đó là công việc cứu độ, là việc đem lại ơn cứu rỗi cho con người. Thiên Chúa Cha đã yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một của Người xuống thế gian để hy sinh chuộc tội cho nhân loại. Đức Giêsu, trong suốt cuộc đời trần thế, đã rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc con người.

3. Lời kêu gọi cho mỗi người Kitô hữu

Lời tuyên bố của Đức Giêsu cũng là lời kêu gọi cho mỗi người Kitô hữu. Mỗi người chúng ta, được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, cũng được chia sẻ vào sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu. Chúng ta được kêu gọi để tiếp tục công việc của Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu, bằng cách yêu thương tha nhân, phục vụ cộng đồng, và loan báo Tin Mừng cho mọi người.

QUYẾT TÂM THỰC HÀNH

Lời tuyên bố của Đức Giêsu cũng là lời kêu gọi cho mỗi người Kitô hữu. Mỗi người chúng ta, khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, cũng được chia sẻ vào sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu. Chúng ta được kêu gọi để tiếp tục công việc của Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu, bằng cách yêu thương tha nhân, phục vụ cộng đồng, và loan báo Tin Mừng cho mọi người.

Hãy suy gẫm về những việc làm cụ thể mà bạn có thể thực hiện để góp phần vào công việc cứu độ của Thiên Chúa.

[13] Vũ khí mạnh mẽ

LỜI CHÚA

“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”
(Lc 22,46)

TĨNH NGUYỆN

Lời Chúa Giêsu “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,46) là lời cảnh tỉnh và nhắc nhở mỗi người về tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời sống Kitô hữu. Cám dỗ là một phần không thể tránh khỏi trong cuộc sống, nó len lỏi vào tâm trí và lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Do đó, cầu nguyện chính là vũ khí giúp chúng ta chiến thắng cám dỗ và giữ vững đức tin.

1. Cám dỗ là gì?

Cám dỗ là những lời mời gọi, những hấp dẫn lôi kéo chúng ta đi ngược lại với Lời Chúa và lương tâm. Cám dỗ có thể đến từ bên ngoài như những lời nói, hành động của người khác, hoặc từ bên trong như những ham muốn, dục vọng của bản thân.

2. Tại sao chúng ta cần cầu nguyện để chiến thắng cám dỗ?

Cầu nguyện cần phải cầu nguyện, vì cầu nguyện giúp chúng ta:

  • Kết nối với Thiên Chúa: Khi cầu nguyện, chúng ta kết nối với nguồn sức mạnh vô biên của Thiên Chúa, giúp chúng ta có đủ sức mạnh để chống lại cám dỗ.
  • Nhận được ơn sủng: Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban cho chúng ta ơn sủng để chiến thắng cám dỗ, nhưng chúng ta cần phải cầu xin.
  • Tăng cường niềm tin: Cầu nguyện giúp chúng ta củng cố niềm tin vào Thiên Chúa và Lời Chúa, từ đó có định hướng rõ ràng trong cuộc sống và không dễ dàng bị cám dỗ lay chuyển.
  • Nhận thức sự yếu đuối của bản thân: Cầu nguyện giúp chúng ta nhận thức được sự yếu đuối của bản thân và biết cậy dựa vào Thiên Chúa.

3. Cách thức cầu nguyện để chiến thắng cám dỗ

  • Cầu nguyện thường xuyên: Cầu nguyện không chỉ là khi gặp cám dỗ, mà cần trở thành thói quen hàng ngày để luôn kết nối với Thiên Chúa.
  • Cầu nguyện cụ thể: Nêu rõ những cám dỗ mà chúng ta đang gặp phải và cầu xin Thiên Chúa ban ơn giúp chúng ta chiến thắng.
  • Cầu nguyện với niềm tin: Tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn lắng nghe và sẵn sàng ban ơn cho chúng ta.
  • Cầu nguyện kết hợp với hành động: Cầu nguyện cần đi đôi với những hành động cụ thể để chống lại cám dỗ, như tránh xa những dịp tội lỗi, rèn luyện đức tính, v.v.

QUYẾT TÂM THỰC HÀNH

Cầu nguyện là vũ khí vô cùng quan trọng giúp chúng ta chiến thắng cám dỗ và giữ vững đức tin. Hãy biến cầu nguyện thành thói quen hàng ngày để luôn kết nối với Thiên Chúa và nhận được ơn sủng chiến thắng mọi cám dỗ trong cuộc sống.

Dẫn lễ Thiếu nhi | CN 5 MC & CN Lễ Lá

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY

Dẫn vào Thánh lễ

Lúa mì gieo xuống mục đi
Mới sinh cây lúa xanh rì trổ bông
Đời ta nếu muốn lập công
Phải luôn biết chết vì lòng mến yêu.

Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật thứ năm Mùa Chay: Như hạt lúa mì chết đi để sinh nhiều bông hạt khác (Ga 12,20-33).

Chúa Giêsu ví Ngài giống như hạt lúa: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác” (Ga 12, 22). Chúa Giêsu đã chết đi cho tội lỗi của loài người và sự chết ấy đã đem lại sự sống đời đời cho con người.

Dâng Thánh lễ hôm nay, xin cho các bạn thiếu nhi biết từ bỏ tính ích kỷ, kiêu ngạo, ghen ghét và cả tội lỗi nữa, để mỗi người cùng được sống hạnh phúc với Chúa. Mời cộng đoàn đứng.

Bài đọc 1 (Gr 31,31-34)
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn tha thứ cho dân Is-ra-el mỗi khi họ phạm tội. Chúa còn lập giao ước với dân Người và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa.

Bài đọc 2 (Dt 5,7-9)
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng khi xuống thế làm người, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng lời. Vì thế, Ngài đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho chúng ta.

Lời nguyện chung
Chủ tế: Chúng con thiếu nhi thân mến, thân phận hạt lúa của Chúa Giêsu là chết đi cho tội lỗi chúng ta và sống lại để cứu độ chúng ta. Mời cộng đoàn cùng sốt sắng dâng lời cầu nguyện.

1. Mùa Chay là cơ hội để các Kitô hữu sám hối trở về cùng Thiên Chúa. Xin cho mọi thành phần dân Chúa/ hưởng ứng tích cực lời kêu gọi sống Mùa Chay của Hội thánh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2. Chúa Giêsu đã chết và sống lại để cứu độ con người. Xin cho những ai đang khao khát tìm kiếm chân lý/ gặp được Chúa và tin theo Ngài, để họ cùng được hưởng ơn cứu độ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3. Mùa Chay là thời gian để các tín hữu gia tăng làm việc bác ái. Xin cho các gia đình Công giáo/ biết giảm bớt những chi tiêu không cần thiết, để giúp đỡ những người nghèo. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình”. Xin cho mỗi người trong giáo xứ chúng ta/ biết chết đi cho tính ích kỷ, kiêu ngạo, ganh tị, lười biếng…, để sinh hoa trái trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin dâng lời cảm tạ vì Chúa đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết chết đi cho những thói hư tật xấu và những tội lỗi của mình mỗi ngày, để xứng đáng được hưởng ơn cứu độ Chúa ban. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

Dẫn nhập đầu lễ

Như người tôi tớ chung tình
Giêsu vác lấy thập hình đau thương
Sẵn sàng chấp nhận tai ương
Vâng theo thánh ý trăm đường chẳng sai
Vác cây thập tự theo Ngài
Tín trung phó thác miệt mài tiến lên.

Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật lễ Lá: Giáo hội khai mạc Tuần Thánh tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta bắt đầu nghi thức hôm nay bằng việc làm phép lá và kiệu lá. Mời các bạn cùng dân Do Thái xưa “hoan hô Con Vua Đavit” (Mt 21,9). Cùng với Chúa Giêsu, vị Vua hiền từ trên lưng lừa, chúng ta tiến vào Giêrusalem với nhành lá vạn tuế trên tay.

Dâng Thánh lễ hôm nay, mời các bạn thiếu nhi cùng Chúa Giêsu hiền từ tiến vào Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hãy sốt sắng bước theo Ngài trên con đường tiến về núi Sọ; hãy thinh lặng ở bên chân thập giá cùng Mẹ Maria và tiễn đưa Chúa đến phần mộ của Ngài. Mời cộng đoàn đứng.  

Bài đọc 1 (Is 50, 4-7)
Sách ngôn sứ I-sa-i-a trình bày cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ đau khổ. Dù bị dân chúng ngược đãi và xỉ vả, nhưng Người vẫn một lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa.

Bài đọc 2 (Pl 2, 6-11)
Đây là một trong những bài thánh ca hay nhất của Tân Ước, trích trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê diễn tả: Chúa Giêsu đã tự hạ chính mình, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người.

Bài Thương Khó (Mc 14,1-15,47)
Bài Thương Khó theo Thánh Máccô tường thuật lại sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúng ta hãy sốt sắng lắng nghe, cầu nguyện và hiệp thông với những đau khổ Chúa Giêsu phải chịu vì tội lỗi con người chúng ta.

Lời nguyện chung
Chủ tế: Chúng con thiếu nhi thân mến, Chúa Giêsu đã được dân chúng tung hô và rước vào Giê-ru-sa-lem. Cùng hiệp lời với các tín hữu trên khắp thế giới, chúng ta cùng nguyện xin.

1. Chúa Giêsu là Vua Hiền Từ, Vua Hòa Bình, Vua các vua, và Vua của mọi tâm hồn. Xin cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội/ luôn chiêm ngắm và bắt chước mẫu gương Vua Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2. Thập giá là cây mang quả trường sinh. Xin cho mọi người trên khắp hoàn cầu/ nhận biết và tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3. Hành trình cuộc đời người Công giáo là bước theo Đức Kitô vác thập giá. Xin cho các bậc cha mẹ và các thầy cô Công giáo/ biết vui vẻ đón nhận thập giá Chúa trao qua trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4. Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại với con người mãi mãi. Xin cho các thầy cô giáo lý viên, các anh chị trưởng và các bạn thiếu nhi/ biết năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, con đường Chúa đã đi chính là con đường thập giá, đem ơn cứu độ cho nhân loại. Xin cho chúng con biết cùng vác thập giá với Ngài, để cùng chết và cùng sống lại với Ngài. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Sống Lời Chúa mỗi ngày | CN IV MC | Năm B

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV MÙA CHAY NĂM B

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Ga 3, 14-21

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”.

SUY NIỆM:

Gioan nói “Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”, kiểu như Thiên Chúa ép buộc con người. Chúng ta cần phải hiểu theo hướng tích cực hơn, nghĩa là những ai nhờ tin vào Thiên Chúa, sẽ được Ngài dẫn đi trong ánh sáng. Còn những ai không tin sẽ đi trong bóng tối; tác giả ám chỉ bóng tối là sự luận phạt của Thiên Chúa.

Đúng vậy, nhờ biết Thiên Chúa mà con người sẽ đi trong ánh sáng của sự thật; nếu không, người ta sẽ sống trong bóng tối, nghĩa là những tội lỗi, những xấu xa của mình.

Thiên Chúa là Ánh Sáng thật, nên mọi đường lối của Ngài đều ngay thẳng. Còn ma quỷ là chúa của bóng tối, nên nó sẽ lối kéo những người làm những điều xấu núp bóng của nó.

Ánh sáng và bóng tối là cuộc chiến liên lỉ trong cuộc đời mỗi người. Bản chất con người vốn thích những thứ dễ chịu, nhưng thường điều đó lại thuộc về bóng tối, vì nó rất sâu, rất tối, không ai nhìn thấy.

Chúa Giêsu đã dùng cây thập giá để chiếu sáng những chỗ tăm tối mịt mù của chúng ta và dẫn chúng ta đến vùng trời rực sáng qua sự Phục sinh của Ngài.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết can đảm bước ra bóng tối để được sống trong ánh sáng. Dám chấp nhận sự khó chịu, ngỡ ngàng, chói chang của ánh sáng… nhưng đó mới là bản chất thật sự của Kitô hữu chúng con.

THỨ HAI

LỜI  CHÚA: Ga 4, 43-54

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: “Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình”. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.

Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: “Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin”. Viên quan chức trình lại Người: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”. Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.

Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: “Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt”. Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi”, nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.

SUY NIỆM:

Giờ khỏi bệnh của người con đúng giờ Chúa Giêsu nói: “Con ông mạnh rồi”. Vì lẽ đó, cả gia đình ông tin vào Chúa Giêsu.

Đôi khi đúng giờ đó, đúng sự kiện đó, đúng biến cố đó đã giúp chúng ta nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, vì thế củng cố them niềm tin cho chúng ta.

Những thời khắc, những sự kiện đó giúp chúng ta nhận ra rằng Chúa luôn yêu thương và muốn cứu chữa chúng ta.

Mùa Chay là thời gian để Chúa mời gọi chúng ta hoán cải. Đây không chỉ là tâm tình sám hối, nhưng còn là, và nhất là thời điểm mời gọi chúng ta có quyết tâm sửa đổi con người của mình.

Hoán cải không phải chỉ là sám hối về tội lỗi, mà còn là sự khiêm tốn nhìn nhận mình còn yếu kém, còn dở và sẵn sàng đón nhận góp ý của  người khác để chỉnh sửa lại cho đúng hơn, cho hay hơn, cho tốt đẹp hơn.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, Chúa cho con quá nhiều những cơ hội để giúp con trở nên tốt hơn. Xin cho con nhận ra những thời khắc đó để con biết hoán cải mình.

THỨ BA

LỜI CHÚA: Ga 5, 1-3a. 5-16

Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa “Chiên”, có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: “Anh muốn được lành bệnh không?” Người đó thưa: “Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi”. Chúa Giêsu nói: “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về”. Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: “Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng”. Anh ta trả lời: “Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: “Vác chõng mà đi”. Họ hỏi: “Ai là người đã bảo anh “Vác chõng mà đi?” Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.

Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: “Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước”. Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh. Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.

SUY NIỆM:

Tôi thấy được ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn về phía người bất toại trong số những người bất hạnh. Ngài biết rõ sự khốn khổ cũng như khao khát được chữa lành của anh ta, nên chính Ngài đã ngỏ lời trước với anh.

Chính anh ta cũng đã trình bày về sự bất lực của mình với Chúa Giêsu. Qua đó cho thấy nhãn quan muốn buông xuôi tất cả: còn gì nữa đâu mà phải cố gắng.

Tuy nhiên Chúa Giêsu cho anh thấy còn một tia sáng, một điểm tựa, một ân huệ… đó chính là lòng thương xót Chúa; và quyền năng của Ngài đã giúp anh từ một người bại liệt, đứng lên “Vác chõng mà đi?”

Mùa Chay thánh là cơ hội Giáo hội dành cho chúng ta để nhìn rõ lòng thương xót của Chúa hơn. Đôi khi chúng ta bất lực, muốn buông xuôi tất cả, nhưng Chúa cho chúng ta thấy vẫn còn cơ hội… Và đó chính là hồng ân hoán cải.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, dẫu cuộc đời có đen tối, và dẫu con có tội lỗi đến mức nào, nhưng nếu biết tin vào Lòng thương xót của Chúa, thì con vẫn con cơ hội để “chỗi dậy”. Xin cho con tin tưởng vào Chúa để đứng lên mỗi ngày.

THỨ  TƯ

LỜI CHÚA: Ga 5, 17-30

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

“Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta”.

SUY NIỆM

Đức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót. Đó là sự thật mà Đức Giêsu đã mặc khải trong suốt cuộc đời của Ngài.

Chính vì thế, những việc Chúa Giêsu làm hoàn toàn là hành động của Chúa Cha, để con người biết được mình có một Thiên Chúa yêu thương.

Hành động yêu thương cho đến tận cùng của Thiên Chúa là chết vì yêu, là hy sinh mạng sống cho người mình yêu.

Do đó căn bản của việc sống đạo là biết mình được yêu và cố gắng để sống cho tình yêu đó. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu hướng thượng, tình yêu giải phóng để ta nên tốt hơn. 

Chính tình yêu đó cho chúng ta cơ hội để tham gia đời sống Giáo hội, nghĩa là được hoạt động trong tình yêu và cho tình yêu Chúa qua Giáo hội. Vì thế hãy biết tích cực, chủ động và nhiệt tình để tham gia đời sống Giáo hội trong khả năng của mình.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, có đôi khi con sống ích kỷ, chỉ nghĩ cho mình mà quên rằng Chúa đã sống vì con và vì mọi người. Xin cho con biết quảng đại để hướng đến một tình yêu cao thượng, tình yêu của Chúa đã dành cho con, và tình yêu của tha nhân mà con được mời gọi để chia sẻ.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Ga 5, 31-47

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: “Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.

Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?”

SUY NIỆM

Chứng cớ để chứng minh mình là ai, mình như thế nào là rất quang trọng. Chúa Giêsu có lời chứng của Gioan và nhiều người uy tín khác về thân thế và sự nghiệp của Ngài, nhưng với Ngài lời chứng quan trọng nhất chính là những việc Ngài làm.

Quả thật Ngài đã cho người điếc nghe được, người mù thấy được, người què đi được và thậm chí người chết sống lại… đó là minh chứng về quyền năng của Đấng được xức dầu mà kinh thánh đã nhắc đến.

Ngoài ra minh chứng quan trọng nhất trong thời của Chúa Giêsu là những lời rao giảng cuốn hút đám đông và chính sự hiện diện mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhiều người.

Không cần nói tôi là ai, mà chỉ cần sống bằng tình yêu thương chân thành, một tình yêu có khả năng cuốn hút mọi người, bất kể họ là ai. Tình yêu đó khiến người khác cảm thấy gần gũi, dễ sẻ chia, dễ thay đổi những bất toàn trong cuộc sống, và nhất là dễ hướng đến một giá trị cao cả hơn.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con biết làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của con, vì như thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay không cần thầy dạy, nhưng cần chứng nhân”.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

Có một số người ở Giêrusalem nói: “Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu”.

Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: “Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”. Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

SUY NIỆM

Có nhiều người tưởng rằng Đấng Cứu Thế xuất hiện theo những gì họ suy đoán, tưởng tượng ra, nhưng Đấng Cứu Thế là chính Đức Giêsu ở giữa họ, thì họ lại không chấp nhận. Rõ ràng người ta đi tìm một Thiên Chúa hợp với nhãn quan, dễ dàng xui khiến. Thiên Chúa đó chẳng khác gì con rối của họ.

Thiên Chúa là Đấng đưa ta từ một giá trị xấu trở nên tốt hơn, hay nói cách khác, Ngài giúp ta trở về nguồn cội của mình, mà nguồn cội của con người là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng vô cùng tốt đẹp.

Chính vì thế, tin Chúa không phải để thỏa mãn những nhu cầu vật chất, nhu cầu chóng qua, nhưng là để ta làm cho mình mỗi ngày mỗi đẹp hơn, cho đến khi ta hoàn thiện như Cha trên trời.

Những gì Chúa Giêsu mời gọi và dạy ta sống là để ta nên trở nên đẹp hơn mỗi ngày.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con đừng tìm kiếm Chúa bằng lý trí hiếu kỳ, nhưng bằng tất cả tấm lòng để hướng đến một chân trời mới, chân trời mang lại sự giải thoát toàn diện cho con người của con.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Ga 7, 40-53

Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: “Ông này thật là tiên tri”. Kẻ khác nói: “Ông này thật là Ðấng Kitô”. Người khác nữa lại nói: “Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?” Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: “Tại sao các ngươi không điệu nó tới?” Các người thừa hành thưa rằng: “Chẳng hề có ai nói như người ấy”. Các người biệt phái trả lời rằng: “Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật”. Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: “Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?” Nhưng họ trả lời rằng: “Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa”. Sau đó ai về nhà nấy.

SUY NIỆM:

Dân chúng bất đồng ý kiến về Chúa Giêsu. Đáng chú ý là các thượng tế và biệt phái đã có cái nhìn định kiến về Ngài khi cho rằng từ Galilêa thì không thể xuất hiện một nhân vật được coi là tiên tri; trong khi đó Chúa Giêsu là người Galiêa.

Điều thứ hai là họ xúc phạm người khác và cho cái nhìn của họ là luôn đúng: “Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật”.

Chưa nói đến niềm tin, một tập thể tự cho mình là chân lý và coi người khác chẳng ra gì, thì một tập thể đó không đáng tin và không đáng theo.

Khi thiết lập Giáo hội, Chúa Giêsu luôn tôn trọng nhân phẩm con người và sẵn sàng hạ mình xuống để phục vụ họ. Qua đó muốn giới thiệu cho nhân loại một Thiên Chúa yêu thương.

Chính tình yêu sẽ có sức quyến rũ và lôi kéo con người để nâng cao giá trị của họ.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm đến với Lời Chúa, để chúng con biết rõ về Chúa hơn, hầu chúng con có thể yêu mến, tôn thờ Chúa cho phải đạo.

Sống Lời Chúa mỗi ngày | CN III MC | Năm B

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA CHAY NĂM B

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Ga 2, 13-25

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”.

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giêsu trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người Do-thái đáp lại: “Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.

SUY NIỆM:

Tham gia đời sống Giáo hội không chỉ là làm những việc này việc nọ được phân công hay nhờ vả, thậm chí là tự nguyện đóng góp; mà còn là xây dựng Giáo hội ngày càng tốt đẹp hơn bằng cách giúp Giáo hội sống đúng với bản chất của mình.

Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ vì họ đã làm biến chất Đền Thờ. Ngài trả lại cho Đền Thờ vẻ đẹp vốn có của nó.

Đền Thờ là nơi cầu nguyện, nơi để gặp gỡ Chúa, nhưng chính những người trong Đền Thờ biến thành “cái chợ” để trục lợi. Đó là hình thức buôn thần bán thánh.

Giáo hội là gia đình của Thiên Chúa, là nơi để mọi người sống và cảm nghiệm lòng thương xót của Cha trên trời, nhưng một số người đã làm biến chất Giáo hội theo tinh thần thế tục.

Bản chất của Đền Thờ vẫn là nơi để gặp gỡ Chúa. Bản chất của Giáo hội muôn đời vẫn là gia đình của Thiên Chúa. Chỉ có điều Đền Thờ cần dọn dẹp, Giáo hội cũng cần chỉnh đốn.

Tham gia đời sống Giáo hội thực sự là để cho Giáo hội ngày càng tốt đẹp hơn.   

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết siêng năng dọn dẹp tâm hồn mình bằng những giờ kiểm tâm và những lần xưng tội, để con xứng đáng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Lc 4, 24-30

 (Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.

Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.

SUY NIỆM:

Ơn cứu độ phổ quát, dành cho tất cả mọi người. Nhưng có những người xem đó là đặc quyền cho riêng họ, và đương nhiên họ sẽ được.

Ơn cứu độ phổ quát, nhưng điều kiện đầu tiên là phải tin. Có những người được chọn để hưởng ưu tiên, nhưng không tin, vì thế họ vẫn không thể đón nhận ơn cứu độ. Có những người biết mình là “dân ngoại”, là dân không xứng đáng, nhưng họ lại tin, nên sẽ được ơn cứu độ.

Thái độ tin dẫn đến hành động đức tin. Ai không tin sẽ không bao giờ thực hành điều Chúa dạy. Người tin thì luôn thao thức làm sao để đẹp lòng Chúa.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu biết rằng, ơn cứu độ dành cho tất cả những ai và sống theo đường lối của Chúa, để con không tự hào tự mãn mình chắc chắn được cứu độ nhờ Bí tích Rửa tội và không khinh chê người khác vì họ là lương dân. Nhưng điều quan trọng là cho chúng con luôn biết tìm kiếm để thi hành thánh ý Chúa trong mọi bậc sống của mình.

THỨ BA

LỜI CHÚA: Mt 18, 21-35

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

SUY NIỆM:

Đối với con người, tha thứ phải có giới hạn, vì sức người có hạn; nhưng đối với Thiên Chúa, tha thứ là vô hạn, vì nơi Thiên Chúa, không có sự chấp nhất, kết án, hoặc giận hờn.

Mặc khải Lời Chúa cho ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Tuy nhiên, Lời Chúa cũng cho ta biết bất cứ một loại sự dữ nào cũng không thể thuộc về Thiên Chúa.

Do đó, Thiên Chúa luôn mời gọi và trao ban hạnh phúc cho ta, nhưng có những điều kiện khiến con người không thể có được điều đó; không phải vì Thiên Chúa phạt, nhưng vì con người không xứng đáng.

Thay vì nuôi giận hờn, chấp nhất… thì hãy tha thứ; vì còn bất cứ cảm xúc xấu nào cũng không thể xứng đáng với sự thánh thiện, tốt lành của Thiên Chúa.

Mùa Chay là thời gian để ta tháo gỡ những rào cản nơi chính bản thân mình cho Chúa có thể biến đổi nơi thân xác phàm tục chúng ta trở thành thân xác phục sinh.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con chiêm ngắm Chúa mỗi ngày trong cầu nguyện và Lời Chúa để học nơi Chúa sự yêu thương tha thứ cho người khác.

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Mt 5, 17-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu là một nhà tâm lý lỗi lạc, vì trong việc giáo dục, Ngài biết rất rõ các môn đệ của Ngài có khuynh hướng “đổ thừa”.

Người ta hay dùng từ “tưởng” để bao che cho những hành động sai trái của mình. Cái “tưởng” đôi khi do mình thiếu hiểu biết, nhưng cũng có khi do mình cố tình để che đậy.

Ở đây Chúa Giêsu mặc khải một cách rõ rang về đường lối của Thiên Chúa, để các môn đệ được biết và không còn lý do ngụy biện.

Ngài cho biết Thiên Chúa là Đấng tốt lành, thánh thiện, nên “một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót”. Không phải Thiên Chúa khắt khe, nhưng vì sự dữ dù nhỏ cũng không xứng đáng với Thiên Chúa.

Do đó, con người cố gắng mỗi ngày để vươn đến sự thánh thiện, tốt lành trong sự trợ giúp mà chúng ta gọi là ân sủng của Thiên Chúa.

Một đàng ý thức mình yếu đuối, bị tội lỗi đẩy xa Thiên Chúa; một đàng biết rằng Chúa đang chờ đợi và lôi kéo mình để nổ lực “lội ngược dòng” để trở về với Chúa.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con cố gắng mỗi ngày để được ân sủng và tình thương của Chúa bao bọc, hầu con bớt được những điều xấu và tiến đến gần sự thánh thiện của Chúa hơn.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Lc 11, 14-23

Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: “Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Sa-tan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêeliêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán”.

SUY NIỆM:

Vấn đề hôm nay không chỉ là việc một số người ganh tị, không chấp nhận những việc làm tốt của Chúa Giêsu, nhưng vấn đề càng nặng hơn khi họ gán cho Ngài danh hiệu Chúa quỷ. Đó là một sự phạm thượng.

Ban đầu, những người này chỉ là ganh tị vì ảnh hưởng của Chúa Giêsu, nhưng dần dà, sự ganh tị đó ngấm ngầm lớn mạnh đến mức trong thâm tâm họ nhìn Chúa Giêsu là thủ lãnh của ma quỷ.

Sự tai hại của ganh tị là như vậy đó, không chấp nhận để người khác hơn mình, nên tìm mọi cách để người khác thuộc về thế lực hoàn toàn đối lập.

Chúa Giêsu vẫn là Thiên Chúa, nên những ai xem Ngài là thế lực đối lập thì chỉ là ma quỷ mà thôi. Do đó, phản ứng của mộ số người trong đoạn Tin Mừng hôm nay vô tình cho thấy họ thuộc về phe ma quỷ.

Mùa Chay là thời gian để chúng ta sám hối. Điều căn bản mà con người cần sám hối là tính kiêu ngạo để ngoan ngoãn hơn với tác động của Thần Linh hầu nhận ra những điều cao đẹp trong cuộc sống. 

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con tìm đến với sức mạnh của Chúa, để con có thể chiến đấu với ma quỷ đang quấy phá trong con, nhất là kích thích tính hơn người của con.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Mc 12, 28b-34

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”

Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Còn đây là giới răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

SUY NIỆM:

Chính Chúa Giêsu đã cho biết hai điều quan trọng nhất trong thực hành Kitô giáo là mến Chúa và yêu người.

Hai điều này thực ra chỉ là một. Đó là Tình Yêu trong đời sống hằng ngày. Vì thế, sống đạo là sống yêu thương với Thiên Chúa và với con người.

Ông luật sĩ trong đoạn Tin mừng hôm nay là đại diện cho mỗi người chúng ta trong việc khao khát kiếm tìm chân lý. Tuy nhiên từ nhận thức đến thực hành vẫn còn một khoảng cách khá xa.

Ông luật sĩ đã nhận thức rất tốt về điều răn của Chúa. Chính Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Nghĩa là ông hãy làm điều đó, thì ông đã ở trong Nước Thiên Chúa.

Mùa Chay là thời gian để chúng ta thực hành các mối tương quan với Chúa và với tha nhân. Chúa đã chỉ cho thấy, đó là việc sống trọng giới răn mến Chúa và yêu người. Vì vậy, hãy thực hành bằng việc siêng năng cầu nguyện và sống bác ái yêu thương.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết cố gắng mỗi ngày để tô luyện tình yêu với Chúa và tha nhân. Xin cho con yêu Chúa cụ thể bằng việc siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Xin cho con yêu người bằng việc cố gắng để đừng ghét một ai.

THỨ BẢY

LỜI CHÚA: Lc 18, 9-14

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi”. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.

SUY NIỆM:

Kiêu ngạo là điều Thiên Chúa ghê tởm, vì chính tội kiêu ngạo đã làm hư hoại công trình sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Cũng chính tội kiêu ngạo sẽ khiến người ta không thể đón nhận hồng ân cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Và nhất là kiêu ngạo chính là tội chống lạị Thánh Thần.

Nguyên tổ không phải vì mê ăn, nhưng vì muốn được bằng Thiên Chúa nên đã trái lệnh Chúa mà ăn trái cấm. Còn tội nào khủng khiếp cho bằng thụ tạo muốn hạ bệ Đấng Sáng tạo.

Con người bị hậu quả của tội nguyên tổ làm cho dễ sa ngã, phạm tội, nhưng khi họ biết khiêm tốn chạy đến với Chúa thì họ sẽ được ơn tha thứ, sẽ được nhận trở lại làm con. Chỉ những ai thấy mình không có tội, không cần đến ơn Chúa thì mới không thể được tha thứ.

Và nhất là, dù được ơn Chúa tác động bằng nhiều cách thức khác nhau, họ vẫn cứng long không chịu nghe theo, lúc đó họ đang chống lại Thánh Thần; và vì thế cũng không thể đón nhận ơn tha thứ.

Một người kiêu ngạo là người tự thấy mình tốt lành còn hơn Chúa, nên họ xem thường mọi người và chẳng cần đến Chúa.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, con là kể có tội độc ác ngàn trùng. Xin thương tha thứ cho con và nhận con trở lại làm con Chúa.

Ôn tập Tin mừng Gioan

ÔN TẬP TIN MỪNG GIOAN

Tài liệu học hỏi chuẩn bị cho lễ Bổn mạng Ban Kinh Thánh

Thứ Bảy ngày 18. 05. 2024

DẪN NHẬP TỔNG QUÁT

I. TÁC GIẢ VÀ ĐỘC GIẢ

1. Gioan là con ai? Quê ở đâu?
– Con ông Dêbêđê, quê ở Bétxaiđa.

2. Gioan cùng ai là nhóm môn đệ thân tín của CGS? Nhóm thân tín này thường hiện diện trong những biến cố quan trọng nào?
– Cùng với Phêrô và Giacôbê.
– Nhóm này thường hiện diện với CGS khi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Phêrô, khi CGS hiển dung, trong vườn cây dầu.

3. Trong tin mừng Máccô, Gioan được gọi với biệt danh gì?
– Con thiên lôi (Mc 3,17).

4. Trong tin mừng thứ tư, Gioan được gọi với biệt danh gì?
– Người môn đệ Chúa yêu mến.

5. Về già, Gioan sống ở đâu? Chết cách nào và tại đâu?
– Sống tại Êphêxô. Ông chết trong tuổi già tại đảo Pátmô.

6. Ngoài quyển Tin mừng thứ tư, Gioan còn viết những sách thánh nào?
– Sách Khải huyền và các thư 1,2,3 Gioan.

7. Gioan viết tin mừng cho các tín hữu vùng nào? Họ chịu ảnh hưởng những gì?
– Vùng Tiểu Á.
– Họ chịu ảnh hưởng: Văn hóa Hy lạp, quan niệm Do thái giáo và thuyết ngộ đạo.

II. NƠI, THỜI GIAN BIÊN SOẠN VÀ MỤC ĐÍCH.

1. Gioan viết Tin mừng thứ tư ở đâu và lúc nào?
– Viết tại Êphêxô vào cuối thế kỷ I scn.

2. Mục đích viết Tin mừng là gì?
Nhằm hai mục đích:
(1) Ghi lại một số dấu chỉ CGS đã làm.
(2) Qua các dấu chỉ CGS làm, Gioan muốn mời gọi tín hữu tin vào CGS để được sự sống đời đời.

3. Trong Gioan, Tin là gì?
– Tin là hành động, Tin vào CGS chính là Con Thiên Chúa và nhờ tin vào Ngài, con người được ơn cứu độ.

CHƯƠNG 1

I. LỜI TỰA (1,1-18).

1. Gioan dùng từ gì của ngôn ngữ Hy lạp để gọi Chúa Giêsu?
– Logos, nghĩa là Ngôi Lời

2. Theo ngôn ngữ Hy lạp, từ “Logos” diễn tả điều gì?
– Logos mang ý nghĩa một sứ điệp, là căn nguyên của thế giới.

3. Theo Gioan, Logos diễn tả điều gì về CGS?
– GS là Lời của Thiên Chúa vì qua Ngài, Thiên Chúa bày tỏ đầy đủ chính Người cho nhân loại.

4. CGS là Ngôi Lời hằng hữu nghĩa là gì?
– Ngài đã hiện hữu từ ban đầu, luôn hiện hữu với Thiên Chúa.

5.CGS, Ngôi Lời là sự sống nghĩa là gì?
– Ngài là Đấng sáng tạo và là nguồn sự sống như Ngài đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (11,25).

6. CGS, Ngôi Lời là sự sáng nghĩa là gì?
– Vì Ngài hướng dẫn con người đến với Thiên Chúa, là nguồn sự sống thật: “Tôi là ánh sáng thế gian để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (12,46).

7. Con người phản ứng thế nào trước ánh sáng của Ngôi Lời?
Có hai phản ứng:
– Đón nhận: Nghĩa là tin vào Ngài.
– Từ chối: Không tin vào Ngài.

8. CGS, Ngôi Lời đến với con người để làm gì?
– Để nói cho con người biết về Thiên Chúa.
– Để thông ban ân sủng của Thiên Chúa cho con người.

II. GIOAN TẨY GIẢ (1,6-8.15.19-34).

1. Vài trò của Gioan Tẩy Giả là gì?
– Làm chứng cho Ánh Sáng (Đức Kitô) nhằm giúp con người tin vào CGS.

2. Nhóm người Do thái chất vấn Gioan Tẩy Giả thế nào về con người của ông: “ông là ai”?
– Chất vấn về ba danh hiệu: (1) Có phải là ĐKT; (2) Êlia; (3) Ngôn sứ nào đó.

3. Gioan trả lời thế nào?
– Phủ định: Không phải là ĐKT, Êlia hay ngôn sứ.
– Khẳng định: Chỉ là người dọn đường và làm chứng cho Ánh Sáng.

4. Gioan Tẩy Giả trả lời thế nào khi người Do thái hỏi: tại sao ông làm phép rửa?
– Ông chỉ nói đến cách làm phép rửa và qua đó giới thiệu phép rửa mà CGS sẽ thực hiện: trong Thánh Thần.

5. Gioan Tẩy Giả giới thiệu CGS với  tước hiệu gì? Nghĩa là gì?
– Chiên Thiên Chúa. Nghĩa là CGS dùng chính máu mình để giải cứu nhân loại.

III. CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN (1,35-51).

1. Trong Gioan, hai môn đệ đầu tiên theo CGS là ai?
– Anrê và một người giấu tên, đó là Gioan Tông Đồ.

2. Họ đã làm gì sau khi nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu về CGS?
– Họ theo Ngài và ở lại với Ngài trong ngày hôm đó: Họ trở thành môn đệ của Ngài.

3. Anrê giới thiệu thế nào về CGS cho Simon?
– Chúng tôi đã gặp được Đấng Mêsia.

4. CGS làm gì với Simon khi Anrê giới thiệu?
– Ngài đổi tên ông thành Kêpha.

5. Việc đổi tên trong Thánh Kinh có nghĩa gì?
– Nói lên sự thay đổi cuộc sống của người ấy hoặc nói lên vai trò mới mà Chúa trao cho người ấy.

6. Philípphê quê ở đâu? Ông giới thiệu CGS cho ai?
– Quê ở Bétxaiđa. Ông giới thiệu CGS cho Nathanaen.

7. CGS dùng cách gì để thuyết phục Nathanaen?
Ngài dùng hai cách:
– Biết rõ lòng ông thế nào: người “lòng dạ không có gì gian dối”.
– Biết rõ điều ông đang suy nghĩ: “Tôi thấy anh đang ngồi dưới cây vả”.

8. Nathanaen tuyên xưng vào CGS thế nào?
– Bằng hai danh hiệu: Con Thiên Chúa và vua Israel.

9. CGS hứa với Nathanaen rằng sẽ thấy “thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người”, nghĩa là gì?
– CGS là trung gian, nối kết trời và đất. Qua Ngài, Thiên Chúa đến với con người; và nhờ Ngài, con người sẽ đến với Thiên Chúa.

CHƯƠNG 2

I. TIỆC CƯỚI CANA (2,1-12)

1. Cana ở đâu?
– Thuộc miền Galilê (Bắc Palestin) cách Nadarét khoảng 6km.

2. Đức Maria làm gì khi thấy chủ tiệc hết rượu?
– Trình bày cho CGS: “Họ hết rược rồi”.
– Dặn dò gia nhân: “Người bải gì, các anh cứ làm theo”.

3. CGS nói với Maria: “chuyện đó can gì đến bà” có nghĩa là gì?
– Là bày tỏ sự hiểu lầm: Đức Maria chưa hiểu hết việc của CGS.

4. CGS làm gì sau khi đáp lại lời thỉnh cầu của Đức Maria?
– Ra lệnh cho các gia nhân: đổ nước đầy các chum và múc đem cho người quản tiệc. Phép lạ đã xảy ra.

5. Với CGS, phép lạ này có ý nghĩa gì?
– Đây là dấu lạ đầu tiên nhằm: bày tỏ vinh quang và thuyết phục các môn đệ tin Ngài.

II. THANH TẨY ĐỀN THỜ (2,13-22).

1. Tại sao CGS đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ?
– Vì hai lý do: (1) Họ lợi dụng đền thờ nhằm trục lợi. (2) Họ chiếm phần đất của dân ngoại đến thờ Thiên Chúa.

2. CGS nói với người Do thái: “Cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Đền thờ mà CGS muốn nói đến là gì? Ý nghĩa thế nào?
– Đó là thân thể của Ngài.
– Ý nghĩa: Ngài sẽ bị giết chết (phá hủy) và trong bà ngày sẽ sống lại (xây dựng lại).

CHƯƠNG 3

I. CGS VÀ NICÔĐÊMÔ (3,1-21).

1. Nicôđêmô là ai?
– Pharisêu, một thành viên của Thượng Hội Đồng.

2. Tại sao ông đến gặp CGS vào ban đêm?
– Vì thận trọng với các thành viên khác trong Thượng Hội Đồng.
– Vì đó là thời gian thuận tiện.

3. CGS nói với Nicôđêcô là “cần phải tái sinh”. Tái sinh nghĩa là gì? Và phải tái sinh thế nào?- Tái sinh là sinh lại bởi ơn Chúa Thánh Thần: phải chết đi con người cũ của tội lỗi và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
– Phương cách để tái sinh: Tin vào CGS và tin vào Chúa Cha.

4. CGS mạc khải cho Nicôđêmô thế nào về Chúa Cha?
– Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (2,13).

5. CGS lấy lại hình ảnh con rắn đồng trong sa mạc để ám chỉ điều gì?
– Ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài.

CHƯƠNG 4

I. CGS VÀ NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI (4,1-42)

1. CGS khởi đầu câu chuyện với người phụ nữ Samari bằng cách nào? Phản ứng của người phụ nữ thế nào? Vì sao?
– Bằng cách xin chị nước uống.
– Người phụ nữ: từ chối vì người Samari và người Do thái có mâu thuẫn xâu xa từ lâu đời.

2. CGS muốn giới thiệu cho người phụ nữ loại nước gì? Hiệu quả của loại nước này?
– Nước hằng sống, thứ nước làm cho đời sống thiêng liêng không còn khát nữa.

3. Tại sao CGS lại nói đến vấn đề hôn nhân của người phụ nữ?
CGS muốn:
– Người phụ nữ thấy rằng Ngài thấu suốt lòng chị.
– Người phụ nữ nhận ra tình trạng tội lỗi của mình.

4. Kết quả cuộc đối thoại giữa CGS và người phụ nữ?
– Chị tin CGS là Đấng Kitô.

5. CGS lưu lại Samari bao lâu?
– hai ngày.

6. Dân làng tin vào CGS nhờ đâu?
Nhờ hai nguyên nhân:
– Nhờ lời người phụ nữ nói.
– Nhờ chính họ đã nghe và thấy việc CGS làm trong hai ngày Ngài lưu lại với họ.

7. CGS nói với các môn đệ về lương thực của Ngài. Lương thực đó là gì?
– Đó là thánh ý Thiên Chúa Cha: mang Tin mừng cứu độ đến cho mọi người.

II. CHỮA LÀNH ĐỨA CON VIÊN CẬN VỆ (4,43-54).

1. CGS chữa phép lạ này khi Ngài đang ở đâu?
– Cana.

2. CGS mời gọi viên cận vệ điều gì?
– Tiến xa trong đức tin: Đó là tin không dựa vào dấu lạ mà chỉ dựa vào lời nói của CGS.

3. Kết quả của phép lạ chữa đứa con viên cận vệ là gì?
– Con ông được khỏi.
– Ông và cả gia đình tin vào Chúa.

CHƯƠNG 5

I. CHỮA NGƯỜI BỆNH TẠI HỒ BẾTDATHA (5,1-18).

1. CGS chữa một người bệnh tại hồ Bếtdatha. Tên Bếtdatha nghĩa là gì?
– Nghĩa là “nhà tình thương”.

2. Người bên hồ Bếtdatha bị bệnh bao nhiêu năm?
– 38 năm.

3. Việc chữa lành người bệnh bên hồ Bếtdatha do lòng tin của người bệnh hay quyền năng của Chúa?
– Do quyền năng của CGS.

4. Việc CGS chữa lành người bệnh bênh hồ Bếtdatha gây nên việc chống đối từ phía người Do thái. Tại sao?
– Vì CGS chữa bệnh trong ngày Sabát.

5. Đáp lại sự chống đối của người Do thái cho rằng CGS phạm luật Sabát, Ngài trả lời thế nào? Ý nghĩa của câu trả lời đó?
– Trả lời: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (5,17). Nghĩa là Ngài tiếp nối công việc bảo vệ và yêu thương tạo vật mà Chúa Cha luôn làm.

6. Người Do thái không chỉ chống đối CGS mà còn muốn giết Ngài nữa. Tại sao?
– Vì hai lý do: (1) CGS vi phạm luật Sabát; (2) CGS tự xưng mình là Con Thiên Chúa.

7. Trong diễn từ về Chúa Con (5,19-47), CGS nói lên sự hiệp nhất của Ngài và Chúa Cha trong hai việc làm nào?
– (1) Ban sự sống; (2) Xét xử.

8. Trong diễn từ về Chúa Con (5,19-47), CGS nói đến 4 nhân chứng cho Ngài. Đó là những nhân chứng nào?
– (1) Chúa Cha; (2) Gioan Tẩy Giả; (3) Các việc Chúa Con làm; (4) Thánh Kinh-Môsê.

9. Trong diễn từ về Chúa Con (5,19-47), Chúa Cha làm chứng cho CGS khi nào?
Trong hai biến cố quan trọng: Phép rửa và hiển dung.

CHƯƠNG 6

I. CHÚA GIÊSU HÓA BÁNH RA NHIỀU (6,1-15).

1. Trong Gioan, phép lạ hóa bánh ra nhiều xảy ra ở đâu, vào dịp nào?
– Bên kia biển hồ còn họi là hồ Galilê hay Tibêria. Vào lúc gần lễ Vượt Qua.

2. CGS nói gì với Philípphê và Ngài nói với ý gì?
– “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”.
– Ngài hỏi nhằm thử Philípphê và cũng để nhắc nhở đến trách nhiệm của các môn đệ.

3. Ai giới thiệu em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá cho CGS? Và bao nhiêu người được ăn no từ 5 chiếc bánh và 2 con cá này?
– Anrê.
– 5000.

4. Phản ứng của dân chúng như thế nào sau khi chứng kiến phép lạ? Và CGS làm gì?
– Dân chúng: Nhìn nhận CGS là ngôn sứ và muốn tôn Ngài lên làm vua.
– CGS: Lánh đi nơi khác vì không muốn dân chúng tôn mình là vua.

II. DIỄN TỪ BÁNH HẰNG SỐNG (6,22-71).

1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, CGS trình bày diễn từ về chủ đề gì?
– Bánh Hằng Sống.

2. Diễn từ Bánh Hằng Sống có thể chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn gồm những gì?
– 6 đoạn.
– Mỗi đoạn gồm: một lời của dân chúng và câu trả lời của CGS.

3. Khởi đầu diễn từ bánh hằng sống (6,22-66), CGS mời gọi người Do thái điều gì?
– Hãy ra công làm việc vì lương thực trường tồn. Đó là lương thực Ngài ban cho họ và mang lại cho họ sự sống đời đời.

4. Bánh hằng sống là gì và khác Manna thế nào? Bánh ấy ám chỉ điều gì cho ngày hôm nay?
– Bánh hằng sống chính là Mình và Máu của CGS.
– Manna chỉ nuôi phần xác. Còn bánh hằng sống mang đến sự sống đời đời.
– Bánh Hằng Sống ám chỉ đến Thánh Thể của ngày hôm nay.

5. Phản ứng về diễn từ Bánh hằng sống, dân chúng nói: “Lời này chướng tai quá! Ai nghe cho nổi?” nghĩa là gì?
– Nghĩa là họ không tin. “Chướng tai” không phải là khó hiểu mà là khó chấp nhận.

6. Phản ứng sau diễn từ Bánh Hằng Sống, Phêrô nói gì với CGS?
– Phêrô tuyên xưng: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (6,68-69).

CHƯƠNG 7

I. CGS DỰ LỄ LỀU (7,1-13).

1. Lễ Lều bắt đầu từ ngày nào? Kéo dài bao lâu? Ý nghĩa của ngày lễ? Ba lễ lớn của người Do thái là những lễ nào?
– Bắt đầu từ ngày 15 tháng 7 và kéo dài một tuần.
– Ngày lễ nhắc nhớ thời gian dân Israel đi trong sa mạc để vào đất hứa.
– 3 lễ lớn: Vượt Qua, lễ Lều và lễ Ngũ Tuần.

2. Anh em CGS đề nghị Ngài lên Giêrusalem dự lễ nhằm mục đích gì? CGS đáp trả thế nào?- Đề nghị của anh em CGS: Có thể đề nghị mang tính mỉa mai hoặc họ muốn CGS chứng tỏ quyền năng để họ thơm lây.
– Đáp trả của CGS: (1) Nói “giờ tôi chưa đến”; (2) Vạch ra sai trái của họ: Họ thuộc về thế gian.

II. CGS GIẢNG DẠY TRONG ĐỀN THỜ (7,14-52).

1. Người Do thái ngạc nhiên nói về CGS: “ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” (7,15b). CGS trả lời thế nào?
– CGS trả lời: Những gì Ngài nói không phải là kiến thức mà là đạo lý. Đạo lý này xuất phát từ Thiên Chúa Cha.

2. Người Do thái dựa vào những chứng cứ nào để phủ nhận CGS là Đấng Kitô (7,27)?
– Họ dựa vào chứng cứ là họ biết rõ nguồn gốc của CGS, con ông Giuse ở Nadarét.  Còn ĐKT thật thì không ai biết rõ nguồn gốc.

3. CGS nói: “ít lâu nữa Ngài sẽ về cùng Chúa Cha” có nghĩa là gì (7,33-34)?
– Nghĩa là sau cái chết và phục sinh Ngài sẽ lên trời cùng Thiên Chúa Cha.

4. Trong dịp bế mạc lễ Lều, CGS tuyên bố điều gì (7,37-39)? Lời tuyên bố ấy liên hệ đến ai?- CGS tuyên bố: Ngài là Nước Hằng Sống.
– Nước Hằng Sống mà CGS sẽ ban cho con người đó chính là Chúa Thánh Thần.

CHƯƠNG 8

I. NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH (8,1-11).

1. Động cơ của Kinh sư và Biệt phái khi dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với CGS là gì?
– Họ muốn gày bẫy nhằm có bằng cớ để tố cáo CGS.

2. Cử chỉ CGS lấy tay viết trên đất có ý nghĩa gì?
– Cử chỉ này biểu lộ sự từ chối, không đồng tình và không muốn can dự vào.

3. “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (8,7b). Câu nói này của CGS có ý nghĩa gì?
CGS muốn nói hai điều:
– Người ném đá đầu tiên phải là người vô tội.
– Là câu chất vấn mọi người về tội của mình: ai cũng có tội.

4. CGS nói với người phụ nữ: “từ nay đừng phạm tội nữa” nhằm mục đích gì?
– Nói lên sự tha thứ của CGS.
– Khuyến khích người phụ nữ sống tốt hơn.

II. TRANH LUẬN VỚI NGƯỜI DO THÁI (8,12-59).

1. CGS tuyên bố: “Tôi là Ánh Sáng thế gian” (8,12) muốn nói điều gì? Điều kiện để con người có được Ánh Sáng này?
– CGS muốn nói: (1) Ngài soi dẫn con người hiểu ý nghĩa và mục đích của đời sống, và dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. (2) Với cái chết và phục sinh, CGS đánh tan thế lực của bóng tối là Satan.
– Điều kiện để con người có được Ánh Sáng: là “đi theo” nghĩa là đến với CGS, tin và phó thác vào Ngài.

2. CGS nói về tự do  và nô lệ (8,33-38): Nô lệ và tự do theo CGS là gì?
– Nô lệ: Đó là khi người ta sống trong tình trạng tội lỗi: Nô lệ cho sự dữ.
– Tự do: Đó là tin tưởng vào CGS, trở nên môn đệ đích thực của Ngài.

3. Theo CGS, con cháu đích thực của Abraham dựa trên tiêu chuẩn nào (8,39-41)?
– Con cháu đích thực của Abraham không dựa trên huyết thống nhưng dựa trên đức tin: Ai tin vào Chúa thì trở thành con cháu của Abraham.

4. CGS nói với người Do thái rằng họ không phải là con Thiên Chúa. Tại sao (8,41-47)?
– Vì họ không yêu mến Đấng Thiên Chúa sai đến và không nghe lời của Ngài.

5. Người Do thái nguyền rủa CGS điều gì (8,48)? Ý nghĩa thế nào?
Họ nguyền rủa CGS 2 điều:
– Người Samari: nghĩa là dân lai căng, không chính thống.
– Người bị quỷ ám: Nghĩa là không thuộc về Thiên Chúa.

CHƯƠNG 9

CHỮA NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH

1. Các môn đệ hỏi nguyên nhân nào làm cho anh này bị mù: tội của anh hay của cha mẹ anh. CGS trả lời thế nào?
– CGS không nói đến nguyên nhân của căn bệnh. Ngài chỉ khẳng định: Đây là cơ may để Thiên Chúa tỏ mình.

2. CGS nói anh mù là cơ may. Cơ may cho ai?
– Cơ may cho Thiên Chúa: Thiên Chúa bày tỏ vinh quang qua việc chữa lành.
– Cơ may cho anh mù và mọi người: Việc chữa lành là dấu chỉ mời gọi họ tin vào CGS.

3. Việc chữa lành anh mù xảy ra gần hồ Silôác. Chữ Silôác nghĩa là gì? Ám chỉ đến ai?
– Chữ Silôác nghĩa là “người được sai phái”.
– “Người được sai phái” ám chỉ đến CGS, Đấng được Thiên Chúa sai phái.

4. Những người Pharisêu hỏi cha mẹ anh mù điều gì (9,18-23)? Cha mẹ anh trả lời thế nào?
– Họ hỏi 3 điều: (1) Anh mù đúng là con của họ không? (2) Anh có bị mù từ nhò không? (3) Tại sao anh lại được sáng mắt.
– Cha mẹ anh mù trả lời: Anh ấy đúng là con của họ và đã bị mù từ nhỏ, nhưng tại sao anh lại sáng mắt thì họ không dám nói.

5. Cha mẹ anh mù không dám nói sự thật vì sợ bị hình phạt. Đó là hình phạt gì?
– Họ sợ bị loại ra khỏi hội đường, nghĩa là bị loại khỏi cộng đoàn.

6. Đối diện với nhóm Pharisêu, anh mù khẳng định thế nào về CGS (9,28-33)?
– Xác tín: Phải là Đấng đến từ Thiên Chúa mới có khả năng mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.

7. CGS nói Ngài đến để “cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù”. Câu này muốn nói điều gì (9,39)?
Muốn nói: những ai khiêm tốn đón nhận mình đui mù mà tin vào CGS thì được sáng như anh mù. Còn ai tự mãn và từ chối Ngài như nhóm Pharisêu, thì vẫn đui mù.

CHƯƠNG 10.

I. MỤC TỬ NHÂN LÀNH (10,1-21).

1. Nhiệm vụ chính của người mục từ là gì?
– Tìm đồng cỏ, suối nước để chiên được no đủ.
– Bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm của sói dữ.

2. CGS nói đến người mục tử xấu và mục tử tốt với những đặc điểm nào?
a. Mục tử xấu:
– Họ không qua cửa;
– Chiên không nghe tiếng của họ và không theo họ;
– Họ đến để cướp và sát hại chiên. Khi gặp nguy hiểm, họ bỏ trốn.
b. Mục tử tốt:
– Đi vào lối chính.
– Biết từng con chiên và chiên nghe tiếng họ.
– Giúp chiên sống sung mãn.
– Tìm kiếm chiên thất lạc và bảo vệ chiên khi có nguy hiểm.

3. Hình ảnh mục tử xấu và tốt ám chỉ đến ai?
– Mục tử xấu chính là giới lãnh đạo Do thái: Họ chỉ lo cho chính mình, bắt nạt chiên.
– Mục tử tốt chính là CGS: Ngài biết từng con chiên, nuôi chiên no đủ, luôn đi tìm những chiên thất lạc và sẵn sàng chết vì chiên.

4. Lời nào của CGS chứng tỏ Ngài chính là mục tử tốt sẵn sàng chết để bảo vệ chiên?
– Lúc Ngài nói với quân lính đến bắt Ngài: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (18,8).

5. Những chiên thất lạc tiêu biểu được nói trong tin mừng là những ai?
– Mátthêu, Giakêu, người phụ nữ Samari, những người thu thuế và tội lỗi…

II. CGS XƯNG MÌNH LÀ CON THIÊN CHÚA (10,22-42).

1. Lê Cung Hiến bắt nguồn từ thời nào? Cử hành vào ngày nào? Và ý nghĩa của lễ?
– Bắt nguồn từ thời Macabê.
– Cử hành vào ngày 25 tháng 12 (tháng Kisleu).
– Ý nghĩa: Tưởng nhớ ngày Macabê chiến thắng và cử hành nghi lễ thánh hiến đền thờ đã bị tục hóa bởi Antiôchus.

2. CGS nói: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin” (10,25). Tại sao người Do thái không tin CGS là Đấng Kitô?
– Vì họ không thuộc đàn chiên của CGS. Họ đui mù trong tâm hồn.

CHƯƠNG 11

I. ANH LADARÔ SỐNG LẠI (11,1-44).

1. Khi hai tin Ladarô đau nặng, CGS nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, những là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa” (11,4). Ý CGS muốn nói gì?
– Không phải Ladarô không chết nhưng là dịp để Thiên Chúa bày tỏ vinh quang giống trường hợp anh mù từ thuở mới sinh.

2. Khi hai tin Ladarô bệnh nặng, lại là người CGS thương mến, tại sao Ngài không đến ngay mà nán lại thêm hai ngày (11,5-6)?
– Trong Gioan, CGS không bao giờ làm phép lạ theo cách người ta xin.
– Lưu lại 2 ngày chứng tỏ Ladarô thật sự chết.
– CGS trì hoãn chứ không phải từ chối.

3. CGS nói: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao…(11,9-10)?” có ý nghĩa gì?
– Nghĩa là thời gian để CGS tiếp tục làm công việc của Chúa Cha vẫn còn (ban ngày) thì Ngài vẫn làm và không thế lực nào có thể ngăn cản, ngay cả Hêrôđê hay sự thù ghét của người Do thái.

4. CGS nói: Ladarô yên giấc và Ngài đến để đánh thức ông ấy: “Yên giấc” và “đánh thức” có nghĩa gì?
– Yên giấc: Nghĩa là đã chết;
– Đánh thức: Nghĩa là cứu sống.

5. Điểm đặc biệt nào trong lời nói của CGS với Mácta: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa” (11,40).
– CGS mời gọi Mácta trước hết là tin: Tin rồi sẽ thấy chứ không phải đòi hỏi thấy mới tin.

6. Trước khi cứu sống Ladarô, CGS cầu nguyện với Chúa Cha điều gì (11,41)?
CGS cầu nguyện hai điều:
– Cảm tạ Chúa Cha.
– Việc Ngài sắp làm là dấu chỉ để nhiều người tin rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến.

II. THỦ LÃNH DO THÁI QUYẾT ĐỊNH GIẾT CHÚA GIÊSU (11,45-57).

1. Giới lãnh đạo Do thái có thái độ nào trước sự kiện CGS cứu sống Ladarô? Họ đi đến quyết định gì?
– Họ công nhận CGS đã làm nhiều dấu lạ. Nhưng những dấu lạ đó không phải là dấu chỉ để họ tin vào CGS, trái lại chúng là cớ gây nguy hiểm cho họ.
– Họ quyết định họp Thượng Hội Đồng để tìm cách chống đối CGS.

2. Ai đã đưa ra giải pháp trong Thượng Hội Đồng để đối phó với CGS? Giải pháp đó là gì (11,49-50). Gioan đã giải thích giải pháp này thế nào (11,51-52)?
– Đó là Caipha. Ông đưa ra giải pháp: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (11,50).
– Theo Gioan: Lời nói của Caipha là lời tiên tri về cái chết của CGS: Ngài chết cho muôn dân và chết để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.

CHƯƠNG 12

I. XỨC DẦU TẠI BÊTANIA (12,1-11).

1. Sự kiện này xảy ra ở đâu? Khi nào?
– Nơi chốn: Trong nhà Mácta và Maira, thuộc làng Bêtania, một làng nhỏ cách Giêrusalem khoảng 3km.
– Thời gian: 6 ngày trước lễ Vượt Qua.

2. Người xức dầu cho CGS là ai? Người này làm thế nào? Việc làm của cô có ý nghĩa gì?
– Đó là Maria, em của Mácta.
– Chị đổ dầu trên chân CGS và lấy tóc mà lau.
– Ý nghĩa: Một hành động tôn trọng, nhất là ám chỉ việc mai táng CGS.

3. Ai phản đối hành động của người phụ nữ này? Lý do gì?
– Đó là Giuđa Iscariốt. Lý do: Hoang phí.

4. CGS đáp trả thế nào trước sự phản đối của Giuđa Iscariốt?
– Đánh giá hành động của Maria: Đó là việc nghĩa vì ám chỉ đến mai táng Chúa. Hãy dành ưu tiên làm việc nghĩa cho Chúa.
– Đề cao việc làm của Maria: qua bao thế hệ, việc làm này sẽ được loan truyền.

5. Tại sao giới lãnh đạo Do thái quyết định giết cả Ladarô (12,9-11).
Có lẽ vì hai lý do:
– Vì Ladarô mà nhiều người tin vào CGS.
– Vì Ladarô được cứu sống ảnh hưởng đến giáo lý của nhóm Sađốc: không tin có sự sống lại.

II. CGS VÀO THÀNH GIÊRUSALEM (12,12-19).

1. CGS cởi lừa vào thành Giêrusalem: Hình ảnh này ứng nghiệm lời ngôn sứ nào và ý nghĩa gì?
– Ứng nghiệm lời ngôn sứ Dcr 9,9: Nói lên vị vua khiêm nhu.
– CGS cởi lừa: Ngài là vị vua khiêm nhu và hòa bình.

2. Hình ảnh dân chúng cầm cành lá tung hô CGS khi Ngài vào thành gợi lại hình ảnh nào trong Cựu Ước? Ý nghĩa là gì?
– Gợi lại hình ảnh dân chúng tung hô Macabê khi ông vào thành để thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.
– CGS vào thành với tư cách là vua hòa bình và cũng để thanh tẩy đền thờ.

III. CGS LOAN BÁO GIỜ TÔN VINH (12,20-50).

1. Một số người Hy lạp đến gặp CGS. Tại sao CGS nói đây là giờ Ngài sắp được tôn vinh (12,23)?
Vì những người Hy lạp đại diện cho dân ngoại đến gặp CGS. Đó là dấu hiệu chương trình hoạt động của Ngài sắp kết thúc, là thời gian được tôn vinh qua cái chết trên thập giá.

2. Hình ảnh hạt lúa mì nói lên điều gì về sứ mạng của CGS (12,24)?
– Như hạt lúa mì, CGS chấp nhận cái chết. Cái chết của Ngài dẫn đến sự sống và quy tụ mọi dân nước thành cộng đoàn đông đảo: đó là hoa trái.

3. Nhân sự kiện người Hy lạp đến gặp, CGS dạy điều gì về người môn đệ (12,26)?
– Người môn đệ của CGS chỉ tìmgặp thôi chưa đủ mà còn phải theo Ngài.
– Theo CGS: Sống theo lời Ngài dạy, bước theo đường Ngài đi (con đường khổ giá).

4. Tiếng từ trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh nữa” (12,28-30): Lời này của ai và nhằm mục đích gì?
– Đây là lời của Thiên Chúa Cha.
– Lời này nhắm đến dân chúng nhằm kêu gọi họ tin nhận CGS là Đấng mà Thiên Chúa sai đến.

5. CGS nói: “một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). “Được giương cao” ám chỉ điều gì?
– “Được giương cao” ám chỉ 2 điều: (1) Việc CGS chịu đóng đinh trên thập giá; (2) Việc CGS được tôn vinh, nghĩa là được phục sinh và lên trời vinh hiển.

CHƯƠNG 13

I. RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ (13,1-20)

1. Nghi thức rửa chân ý nghĩa thế nào đối với người Do thái và thường ai làm?
– Là việc làm tôn trọng khách (hoặc chủ) và do chính các đầy tớ làm.

2. CGS rửa chân cho các môn đệ để làm gì?
– Để dạy các ông bài học phục vụ: Cúi mình phục vụ anh em như đầy tớ phục vụ chủ.

3. CGS nói với Phêrô: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (13,8). “Chung phần với thầy” nghĩa là gì?
– Có nghĩa là được liên kết hoặc chia sẻ với Ngài: Liên kết và chia sẻ với Ngài trong thân phận đau khổ và cùng được hưởng vinh quang.

4. CGS nói với các môn đệ: “Ai tắm rồi thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu” (13,10). Câu này nghĩa là gì?
Có hai nghĩa:
– Thứ nhất: CGS nói các môn đệ đã được sạch cách thiêng liêng, chỉ cần thanh luyện thêm một ít, đó là thanh luyện cái nhìn về Đức Kitô chịu đau khổ.
– Thứ hai: Không phải tất cả được sạch ám chỉ sự phản bội của Giuđa Iscariốt.

II. TIÊN BÁO GIUĐA PHẢN BỘI (13,21-30).

1. CGS dùng dấu hiệu “chấm bánh và trao” để chỉ Giuđa là người phản bội. Dấu hiệu này thường được dùng với ý nghĩa gì? CGS làm cử chỉ này để làm gì?
– Chấm bánh và trao, đó là việc làm của chủ nhà đối với vị khác danh dự: một hành động tôn trọng.
– CGS làm cử chỉ này nhằm nhắc nhở Giuđa ăn năn sám hối.

2. CGS nói với Giuđa: “Anh làm gì hãy làm đi” (13,27). Câu này nhắm ý gì? Giuđa đáp lại thế nào?
– CGS nói như là lời nhắc nhở cuối cùng dành cho Giuđa để kêu gọi ông chọn lựa: ăn năn hay theo ma quỷ.
– Đáp trả của Giuđa: Ông chọn con đường riêng, con đường của đồng tiền và của bóng tối.

II. MỆNH LỆNH MỚI (13,31-38).

1. Ga 13,31-17,26 được gọi là gì?
– Được gọi là “diễn từ giã biệt” vì CGS nói với các môn đệ những lời tâm huyết nhất trước khi bước vào cuộc khổ nạn.

2. Đoạn 13,31-38, CGS nói với các môn đệ điều gì?
– CGS nói đến 3 điều: (1) Giờ tôn vinh; (2) Điều răn mới; (3) Tiên báo Phêrô chối Chúa.

3. Cốt lõi của điều răn mới là gì? Tại sao CGS phải ban cho các môn đệ điều răn mới?
– Cốt lõi của điều răn mới là sống yêu thương.
– Vì trong lúc Ngài vắng mặt, điều quan trọng của các môn đệ phải có là sống yêu thương.

4. Đâu là điểm mới của giới răn mà CGS để lại cho các môn đệ?
– Đối tượng yêu thương: Yêu thương hết mọi người.
– Mức độ yêu thương: Yêu như Chúa yêu, nghĩa là yêu đến dám hiến thân vì bạn hữu.

CHƯƠNG 14

1. CGS kêu gọi các môn đệ đừng xao xuyến (14,1-3). Tại sao và cách nào để tránh xao xuyến?
– Các môn đệ đừng xao xuyến vì CGS đi dọn chỗ và trở lại đón các môn đệ.
– Cách tránh xao xuyến là tin vào CGS và tin vào Chúa Cha.

2. CGS nói: “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” (14,2). “Chỗ ở” ám chỉ điều gì?
– Chỗ ở: Chính là cuộc sống hạnh phúc trên thiên đàng.

3. CGS nói với Tôma: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (14,6): Đường, sự thật, sự sống nghĩa là gì?
CGS là đường: Nghĩa là Ngài dẫn con người đến với Thiên Chúa, về quê hương đích thực là hạnh phúc thiên đàng.
CGS là sự thật: Vì Ngài đến từ Thiên Chúa Cha, nói cho con người biết về Thiên Chúa và chỉ cho con người cách để sống đẹp lòng Chúa Cha.
CGS là sự sống: Vì chính Ngài là nguồn sự sống thật.

4. Dấu hiệu chứng thực người môn đệ CGS thật sự yêu mến Ngài là gì (14,15.21)?
– Đó là giữ các điều răn của Ngài, nhất là giới răn yêu thương mà Ngài vừa trao ban.

5. CGS hứa ban CTT cho các môn đệ. Trong 14,16-17, Ga dùng từ hy lạp nào để nói về CTT và gọi CTT với danh hiệu gì ?
– Gioan dùng từ Hy lạp parakletos, nghĩa là trạng sư, người bào chữa , người trợ giúp, người bênh vực, người an ủi và chuyển cầu.
– CTT được gọi là “Đấng Bảo Trợ”.

6. Giuđa thắc mắc với CGS: “Tại sao Thầy tỏ mình ra cho chúng con mà không tỏ mình ra cho thế gian? (14,22). “Tỏ mình” có nghĩa là gì? Điều kiện để được Thiên Chúa tỏ mình?
– “Tỏ mình” có nghĩa là đến và ở lại. CGS tỏ mình ra nghĩa là Ngài đến và ở lại với các môn đệ.
– Điều kiện để được Thiên Chúa tỏ mình: Chỉ có ai yêu mến và giữ lời Chúa dạy.

7. Ga 14,25-56 nói lên vai trò gì của CTT?
– Giúp các môn đệ nhớ lại những điều CGS đã dạy, nghĩa là giúp họ hiểu ý nghĩa lời nói và việc làm của CGS.

8. CGS hứa ban bình an cho các môn đệ (14,27). Bình an của CGS là gì?
– Đó là bình an thật trong tâm hồn dù cuộc sống có gặp những khó khăn gian khổ.

CHƯƠNG 15

I. CÂY NHO VÀ CÀNH NHO (15,1-11).

1. Chương 15 tin mừng Gioan nói lên những mối quan hệ nào của người môn đệ?
3 mối quan hệ sau:
– Quan hệ với Thiên Chúa.
– Quan hệ với nhau.
– Quan hệ với thế gian.

2. CGS dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên điều gì?
– Để nói lên mối quan hệ giữa các môn đệ với Ngài: CGS là cây nho, các môn đệ là cành.

3. Điều kiện để người môn đệ sinh hoa trái là “ở lại” trong CGS. Ở lại nghĩa là gì? Ở lại bằng cách nào?
– Ở lại: nghĩa là yêu thương và kết hiệp mật thiết với CGS.
– Ở lại trong CGS bằng cách giữ các giới răn của Ngài.

4. Người môn đệ phải làm gì để vinh danh Thiên Chúa?
– Phải sinh và sinh nhiều hoa trái. Đó là hoa trái của CTT: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.

5. Điều căn bản người môn đệ phải có trong mối quan hệ với nhau là gì (15,12-17)
– Đó là phải sống yêu thương nhau như Chúa yêu, một tình yêu dám hiến thân cho bạn hữu.

6. Ga 15,18-27 nói lên mối quan hệ của người môn đệ với thế gian. Họ bị thế gian thù ghét và bách hại. CGS dạy các môn đệ có thái độ nào khi đứng trước hoàn cảnh đó?
Người môn đệ phải tâm niệm:
– Họ đang chia sẻ số phận với thầy Giêsu vì “tôi tớ không lớn hơn chủ”.
– Đó là cơ hội để họ làm chứng cho Thầy.

CHƯƠNG 16

1. CGS nói trước các môn đệ phải chịu sự bách hại của thế gian. Bách hại thế nào? Đâu là sai lầm của thế gian? Thí dụ tiêu biểu cho sai lầm này là ai?
– Bách hại: Loại trừ các môn đệ ra khỏi hội đường.
– Sai lầm của thế gian: Bách hại các môn đệ CGS mà tưởng rằng phụng thờ Thiên Chúa. Tiêu biểu cho sự sai lầm này Phaolô, người hăng say bách hại các Kitô hữu.

2. CTT đối với thế gian thế nào (16,8-11)?
CTT vạch ra 3 sai lầm của thế gian:
– Từ chối và giết chết CGS.
– Chứng minh sự công chính của CGS.
– Xét xử: Thế gian sẽ bị đánh bại và bị xét xử.

3. Ga 16,12-15, CTT làm gì cho các môn đệ?
Giúp các môn đệ 2 điều:
– Hướng dẫn các ôn đến sự thật toàn vẹn, nghĩa là hiểu và sống những gì CGS đã nói.
– Giúp các ông hiểu tương lai: Nghĩa là dần hiểu rõ mầu nhiệm CGS.

4. CGS nói: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ thấy Thầy” (16,16). “Ít lâu nữa” nói đến điều gì?
Nói đến 2 điều:
– Ám chỉ đến cái chết của CGS.
– Ám chỉ đến phục sinh của CGS.

CHƯƠNG 17

1. Chương 17 của Tin mừng Gioan được gọi là gì?
– Được gọi là “lời nguyện tư tế” vì CGS dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha.

2. Trong “lời cầu nguyện tư tế”, CGS cầu nguyện với Chúa Cha cho ai?
CGS cầu nguyện:
– Cho chính mình.
– Cho các môn đệ.
– Cho những người nhờ lời các môn đệ mà tin vào Ngài.

3. Trong “lời cầu nguyện tư tế”, CGS cầu nguyện điều gì cho chính mình (17,1-5)?
– Xin Chúa Cha tôn vinh mình: Đó là nhân loại nhận biết Ngài chính là Đấng Thiên Chúa sai đến.
– Xin cho Danh Cha được tôn vinh bằng cách Ngài vâng phục Chúa Cha chu toàn kế hoạch cứu độ.

4. Trong “lời cầu nguyện tư tế”, CGS cầu nguyện cho các môn đệ điều gì (17,6-8)?
CGS cầu nguyện cho các môn đệ 2 điều:
– Gìn giữ: (1) Gìn giữ họ trong danh Cha, nghĩa là giúp họ tin nhận Thiên Chúa và trung kiên trong niềm tin. (2) Gìn giữ họ khỏi ác thần, nghĩa là đứng vững trước sự tấn công của thế gian.
– Thánh hiến họ để họ thuộc trọn về Chúa.

5. Trong “lời cầu nguyện tư tế”, CGS cầu nguyện cho những người nhờ các môn đệ mà tin vào Chúa điều gì (17,20-26)?
– CGS cầu nguyện cho họ được hiệp nhất cũng như Ngài với Chúa Cha: “nên một như chúng ta là một”.

CHƯƠNG 18-19

1. Giuđa Iscariốt “đứng chung” với quân lính khi bắt CGS (18,2-5). Hành động này ý nghĩa gì?
– Nghĩa là Giuđa đã quyết chọn con đường đối nghịch với Chúa.

2. CGS nói với quân lính: “Nếu các anh tìm tôi, thì hãy để cho những người này đi” (18,8). Câu này nói lên hình ảnh gì của CGS?
– CGS là mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ chiên.

3. Người đầy tớ vị thượng tế bị Phêrô chém đứt tai tên là gì?
– Mankhô.

4. Tại sao quân lính dẫn CGS đến Khanna khi ông này không còn quyền hạn (18,19-24)?
– Vì thù ghét cá nhân của Khanna khi CGS dám đụng chạm đến quyền lợi của ông qua việc đánh đuổi những người buôn bán trong đền thờ.

5. Tại sao giới lãnh đạo Do thái phải nhờ đến Philatô để xét xử CGS?
– Vì thời ấy, người Do thái không có quyền quyết định giết một phạm nhân. Quyền này thuộc thẩm quyền Rôma mà Tổng trấn Philatô là đại diện.

6. Khi điệu CGS đến Philatô, tại sao giới lãnh đạo Do thái không vào dinh của Philatô (18,28)?
– Vì họ sợ bị ô uế. Như thế họ không đủ điều kiện để mừng lễ Vượt Qua.

7. Thái độ của Philatô thế nào trong khi xử án CGS?
– Ông biết rõ CGS vô tội, nhưng không đủ can đảm để bênh vực và tha cho Ngài.

8. CGS bị đóng đinh ở đâu?
– Đồi Calvariô hay theo tiếng Hipri là Gôngôtha.

9. Trong Gioan, tấm bảng trên thập giá viết bằng những ngôn ngữ nào? Nhằm mục đích gì?
– Viết bằng 3 ngôn ngữ: Hipri, Hy lạp và Latinh.
– Mục đích: Philatô muốn cho nhiều người qua lại có thể đọc được dễ dàng nhằm chế nhạo CGS.

10. Trước khi chết, CGS trao phó Đức Maria cho Gioan, và trao Gioan cho Đức Maria (19,26-27). Điều này có ý nghĩa gì?
– Nói lên tấm lòng cao thượng của CGS dù trong hoàn cảnh đau đớn và cái chết gần kề, Ngài vẫn lo lắng cho Mẹ (trao Mẹ Maria cho Gioan) và cho Giáo Hội (trao Gioan cho Mẹ Maria).

11. Trước khi chết, CGS nói: “Ta khát” và “mọi sự đã hoàn tất”. Những lời này có ý nghĩa gì?
– “Ta khát”: Tượng trưng cho lòng CGS khao khát thực hiện trọn vẹn ý Chúa Cha.
– “Mọi sự hoàn tất”: Nghĩa là sứ mệnh của Ngài đã hoàn thành. Cái chết là hoàn thành sự nghiệp: thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

12. CGS không bị đánh dập ống chân gợi lên hình ảnh gì trong Cựu Ước và muốn nói lên điều gì về CGS 919,31-37)?
– Gợi lên hình ảnh con chiên chịu sát tế trong lễ Vượt Qua: con chiên phải nguyên vẹn, không tì vết.
– Hình ảnh này nói: CGS chính là Chiên Vượt Qua, chịu sát tế để cứu nhân loại.

13. Máu cùng nước chảy ra từ cạnh sườn của CGS. Hình ảnh này được nói ở đâu trong Cựu Ước và ý nghĩa thế nào đối với CGS?
– Được nói trong Dacaria 12,10: một nạn nhân vô tội bị sát hại nhưng từ cái chết của người ấy, một nguồn nước được khai thông để rửa sạch tội lỗi.
– CGS: Với cái chết của Ngài nguồn mạch sự sống được tuôn tràn cho nhân loại chúng ta.

CHƯƠNG 20-21

1. Tại sao người môn đệ CGS thương mến đến mộ trước nhưng lại không vào mà để Phêrô vào trước (20,6-7)?
– Vì ông muốn nhường bước cho Phêrô. Chi tiết này nhấn mạnh vai trò thủ lãnh của Phêrô dù trước đây ông từng chối Chúa.

2. Thấy băng vài và khăn liệm trong một được xếp ngăn nắp, phản ứng của Phêrô và môn đệ CGS thương mến thế nào?
– Phêrô: Ông ngạc nhiên.
– Người môn đệ CGS thương mến: Thấy và tin. Đó là dấu chỉ để ông tin vào CGS phục sinh.

3. CGS nói với Maria Mácđala “đừng giữ Thầy lại”. Lời này muốn nói điều gì?
– Việc quan trọng bây giờ không phải là níu kéo CGS mà là đi loan báo Ngài đã phục sinh.

4. CGS  phục sinh ban Thần Khí cho các môn đệ có ý nghĩa gì?
– Khi tạo dựng, Thiên Chúa thổi sinh khí vào con người và ban sự sống. Nay CGS phục sinh cũng ban Thần Khí cho các môn đệ để các ông tiếp tục sứ mệnh của Ngài là rao truyền và thông ban tin mừng sự sống.

5. Phép lạ mẻ cá lạ lùng, các môn đệ bắt được 153 con (21,11). Số 153 này có ý nghĩa gì?
– 153 là số loại cá dưới nước thời bấy giờ. Số 153 ám chỉ “tất cả”: Giáo Hội là nơi tập hợp tất cả mọi người.

6. Tại sao CGS chất vấn Phêrô 3 lần: “Con có yêu mến Thầy không?”.
– CGS muốn tha thứ cho Phêrô vì ba lần chối Chúa. Bây giờ ông có cơ hội ba lần bày tỏ lòng yêu thương dành cho Ngài.

7. CGS nói với Phêrô: “Con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” (21,15-17). Chúa muốn điều gì nơi Phêrô?
– CGS muốn Phêrô yêu mến Ngài hơn bất cứ người nào yêu Ngài và hơn bất cứ thứ gì.

8. CGS nói với Phêrô rằng “ông giang tay để người ta thắc lưng” và “ông bị dẫn đến nơi mà ông ông muốn” (21,18-19). Những lời này có ý nghĩa gì?
– “Ông giang tay để người ta thắc lưng”: Nghĩa là ông không còn làm chủ đời mình mà phải theo con đường của Chúa.
– “Ông bị dẫn đến nơi mà ông ông muốn”: Ám chỉ đến cuộc tử đạo của ông vì chu toàn sứ mệnh Chúa trao.