Thursday, May 16, 2024
spot_img
Home Blog Page 18

[Bài học] Sách Công vụ Tông đồ| Bài 27: Hành trình đến Rôma – Phần 1

Hành trình đến Rôma – Phần 1

Từ Giêrusalem đến đảo Manta: Gặp bão tố (27,1-44): Đoàn người lên tàu có tất cả 276 người, họ gồm nhiều thành phần khác nhau mà Luca không kể ra cụ thể. Những nhóm người chúng ta có thể kể ra đây là Phaolô và các anh em, trưởng cơ đội Giuliô và các binh lính, một số tù nhân khác và những người khác nữa. Tàu khởi hành từ Giêrusalem đến Xiđon, từ Xiđon đến Myra miền Lykia, từ Alexanria đến Bến Lành gần thành Laxaia.

Gần đến ngày lễ Xá tội, Phaolô khuyên viên đội trưởng đừng ra khơi. Ông còn tiên báo có điềm chẳng lành. Nhưng viên đội trưởng không nghe theo lời khuyên của Phaolô, mà tin lời tài công và chủ tàu. Thế là họ quyết định ra khơi. Tàu khởi hành thuận lợi, nhưng chẳng được bao lâu, bão bắt đầu xuất hiện. Thế là con tàu cứ trôi dạt theo gió. Thủy thủ vứt đồ đạc và các trang bị xuống biển cho tàu nhẹ bớt. Họ sợ hãi và nhiều ngày chẳng ăn uống gì. Bấy giờ, Phaolô lên tiếng: sau vài lời trách cứ, ông mời gọi họ tin vào ông vì Thiên Chúa đã cho ông thấy thị kiến: ra trước tòa án Xêda.

Sau 14 ngày không ăn uống, Phaolô đã cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ. Đây là cử chỉ chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa mọi người. Thế là mọi người bắt đầu ăn uống trở lại. Sau 14 đêm vất vả, họ tiến vào đảo Manta. Khi đang tiến vào đảo, tàu bắc kẹt trên dải cát ngầm, phần đuôi tàu bị sóng đánh vỡ tan. Các binh lính định giết các tù nhân vì sợ họ nhảy xuống biển bơi vào bờ trốn thoát. Biết vậy, viên đội trưởng đã can ngăn và ra lệnh cho mọi người bơi vào bờ; ai không biết bơi thì bám vào các mảnh vỡ của tàu. Dù tàu bị vỡ, nhưng mọi người vẫn giữ được mạng sống.

Bước 1: Làm dấu Thánh Giá

Bước 2: Lắng nghe Lời Chúa

Bước 3: Giải thích Lời Chúa

Bước 4: Cầu nguyện kết thúc

[Bài học] Sách Công vụ Tông đồ| Bài 26: Phaolô tại Xêdarê – Phần 3

Phaolô tại Xêdarê – Phần 3

Diễn từ của Phaolô trước vua Acríppa và Phéttô (26,1-32): Phaolô khởi đầu bài diễn từ đúng với nghệ thuật hùng biện qua cách nói lịch sự, với hy vọng vua Acríppa can thiệp vụ án của ông. Sau lời chào hỏi lịch sự, Phaolô nói về lý lịch của mình, kể lại biến cố Đamát và giải thích tại sao ông trở thành chứng nhân lãnh nhận sứ mệnh rao giảng Tin mừng của Đức Kitô. Nội dung giáo lý ông trình bày cũng giống như những lần ông đã nói ở nhiều nơi trước đó.

Tổng trấn Phéttô cảm thấy thất vọng vì Phaolô cứ mải mê trình bày về Đức Giêsu Kitô mà chẳng quan tâm đến chuyện biện hộ cho mình. Vì thế ông bực mình và nói với Phaolô: “Ông điên thật rồi!” Ngược lại, những điều Phaolô giảng lại có vẻ tác động đến vua Acríppa. Sau đó, mọi người trong buổi họp đều khẳng định Phaolô vô tội. Tuy nhiên, vì đã kháng cáo lên hoàng đế, nên ông sẽ bị giải về Rôma để chờ ngày xét xử.

Bước 1: Làm dấu Thánh Giá

Bước 2: Lắng nghe Lời Chúa

Bước 3: Giải thích Lời Chúa

Bước 4: Cầu nguyện kết thúc

Hạt giống nảy mầm | Lễ đêm Giáng sinh | Năm A

LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 

Lc 2,1-14

A. Hạt giống…

Những điều thánh sử Luca muốn nói :

1. Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử : Ngài sinh ra vào thời hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số.

2. Ngài sinh ra trong cảnh nghèo nàn túng thiếu : trong hang súc vật, nằm trong máng cỏ, chung quanh Ngài ngoài Đức Maria và thánh Giuse chỉ có súc vật và một số người chăn chiên.

3. Nhưng Ngài chính là Con Thiên Chúa vinh quang, là Đức Kitô, là Đấng Cứu Tinh : lời các thiên sứ.

B. … nảy mầm.

1. “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Ngài : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (câu 12) : Văn thể truyền tin luôn cho một dấu chỉ. Thông thường những dấu chỉ đều là những sự việc phi thường (x.1,18-20.36 : cho Dacaria và cho Maria). Ở đây dấu chỉ rất tầm thường : một đứa bé quấn trong khăn nằm trong máng cỏ. Có lẽ giá trị của nó chỉ là chứng minh cho những người chăn chiên biết rằng đó là điều có thật chứ không phải là mơ. Thực ra Luca sâu sắc hơn nhiều : sự nghèo nàn chính là đặc tính của Đức Giêsu. Ngày nay cũng vậy, Chúa mời gọi chúng ta nhận ra Ngài qua dáng vẻ rất tầm thường của những người nghèo hèn.

2. Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng nước bùn. Những khách khác thấy vậy cười nhạo ông. Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là quần áo của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ nữa. (Góp nhặt)

Việc làm của vị quan lớn ấy thật không ai ngờ, nó giúp ta hiểu được phần nào sự bất ngờ đến kinh ngạc của việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người.

3. Nào ai tưởng tượng nổi mức độ nhập thể của Con Thiên Chúa : 

– Ngài không chỉ nhập thể bằng cách nhập vào một thể xác con người (như các vị thần trong những chuyện thần thoại). 

– Mà còn mang thân phận người nghèo, hạng người thấp kém trong xã hội.

– lại còn mang thân phận tội nhân, hạng rốt cùng trong xã hội.

– Và thân phận một tử tội, hạng bị xã hội loài người muốn tiêu trừ.

Tóm lại, Ngài đã xuống tới mức zero (kenose = trở thành hư không), để từ đó mang loài người vươn lên : “Thiên Chúa xuống làm người để nâng loài người lên làm Thiên Chúa”.

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần Bát nhật Giáng sinh | Năm A   

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

CHÚA NHẬT – LỄ GIÁNG SINH

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 2, 1-14

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. 

Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. 

Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”. 

Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

SUY NIỆM:

Luca cho biết lúc Chúa Giêsu ra đời, Ngài “được bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, vì “không tìm được chỗ trong hàng quán”…

Với 2 chi tiết này chúng ta suy tư về mầu nhiệm Giáng Sinh:

Hài Nhi Giêsu “được bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, nghĩa là Chúa sinh ra hết sức đơn sơ, khiêm tốn.

Cha mẹ Ngài “không tìm được chỗ trong hàng quán” thể hiện một sự hất hủi, lạnh lùng của lòng người, dấu chỉ của sự từ chối ơn cứu độ.

Sự đơn sơ, khiêm tốn nghĩa là Chúa chấp nhận tất cả những gì người khác dành cho Ngài. Cho nên có khi người ta diễn tả Chúa sinh ra trong hang đá hết sức đơn sơ hoặc một hang đá quá chừng lộng lẫy; có khi Chúa được trang hoàng ở nơi cung điện, có khi ở một làng quê… Tất cả những điều đó không quan trọng, mà quan trọng là sứ điệp Chúa ở với con người chúng ta trong mọi hoàn cảnh.

Điều chúng ta nhận thấy ngay từ ngày Chúa Giáng trần là có những người đã xua đuổi, không đón tiếp Chúa. Họ có nhiều lý do khác nhau, nhưng hậu quả cuối cùng là không có được hạnh phúc khi không có Chúa ở cùng.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, như ngày xưa, con biết Chúa vẫn đang ở trong cuộc đời chúng con, cũng mang kiếp người đau khổ như chúng con. Nhưng kiếp người đó không phải cũng sẽ qua đi như chúng con, mà để nâng chúng con lên thoát khỏi sự dữ. Xin cho chúng con biết mở lòng ra để đón nhận Chúa hầu có được niềm vui, hạnh phúc đích thực.

THỨ HAI, NGÀY II TRONG TUẦN BÁT NHẬT – 26/12: THÁNH STÊPHANÔ TỬ ĐẠO

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 10, 17-22

Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp các con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn các con nơi hội đường. Vì Ta, các con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân. Nhưng khi người ta nộp các con, các con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải các con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha các con sẽ nói thay cho. Anh sẽ nộp em cho người ta giết; cha sẽ nộp con; con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết. Vì Ta, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.

SUY NIỆM:

Không nao núng, sợ hãi trước những thử thách trong đời sống đòi hỏi một niềm tin vững vàng: “Tôi biết tôi tin vào ai”. Vì xác quyết niềm tin của mình nên dù những đòn vọt, đe dọa của người đời cũng không làm cho người môn đệ bỏ cuộc.

Đứng trước những đe dọa của người đời, người môn đệ không dùng sự khôn ngoan của mình, nhưng ơn Khôn Ngoan của Thánh Thần sẽ soi sáng cho họ biết phải làm gì.

Thánh Stêphanô đã chấp nhận khổ hình khủng khiếp là để người ta ném đá đến chết. Chắc chắn đó là kết quả của một niềm tin vững chắc vào Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của Ngài; hơn thế nữa còn là sự kiên trì, vì “kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.” Rất có thể, một vài viên đá có thể chấp nhận được, nhưng cơn mưa đá đổ xối xả trên thân xác chắc chắn ngài cũng bị nao lòng, nhưng chính sự kiên trì của lòng trung thành đã giúp ngài can trường cho đến chết.

Đức tin của người môn đệ hôm nay cũng gặp muôn vàn gian nan thử thách, đòi hỏi họ phải có một lòng xác quyết vào Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, và sự trung thành cho đến cùng.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con trau giồi đức tin của mình mỗi ngày bằng việc cầu nguyện và suy niệm lời Chúa để con càng tin tưởng vào Chúa hơn. Có như thế con mới có thể trung thành với Chúa cho đến chết.

THỨ BA, NGÀY III TRONG TUẦN BÁT NHẬT- 27/12: THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ

TIN MỪNG: Lời Chúa Ga 20, 2-8

Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa Giêsu yêu, bà nói: “Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để đâu”.

Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.

Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.

SUY NIỆM:

Tất cả mọi con đường ngay chính đều dẫn đến Chúa, nhưng con đường tình yêu sẽ đến với Chúa gần hơn, vì “Thiên Chúa là tình yêu”.

Con đường đó cho Gioan được phúc tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly, nghĩa là ông rất gần với trái tim của Chúa. Ở đó có những điều ông chưa hiểu, nhất là những Chân lý cao siêu, nhưng ông cảm được những gì Chúa thao thức, ấp ủ để bằng tất cả tình yêu của mình ông cộng tác để Tình Yêu Chúa được lan tỏa.

Con đường đó cũng đã thúc bách ông dùng hết sức lực của tuổi trẻ để chạy đến mồ. Ông không nghĩ đến việc đến trước hay đến sau, nhưng phải đến vì nó liên quan đến Thầy mình.

Cũng chính tình yêu đã làm cho ông nhạy bén nhận ra ngay tức khắc Thầy mình sống đã lại: “ông đã thấy và đã tin.”

Mừng lễ thánh Gioan, nhắc chúng ta về một tình yêu dành cho Chúa vì Chúa đã yêu ta trước, để ta dùng tất cả năng lực tích cực của mình mà đáp trả lại tình yêu của Chúa để mong cho tình yêu được bay cao, bay xa và lan tỏa khắp.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con tin Chúa bằng tất cả lý trí, ý chí và nhất là con tim, để con dùng cả cuộc đời mình mà chuyển tải thông điệp yêu thương của Chúa.

THỨ TƯ, NGÀY IV TRONG TUẦN BÁT NHẬT – 28/12: CÁC THÁNH ANH HÀI

LỜI CHÚA: Tin Mừng: Mt 2, 13-18 

Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người”. Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: “Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”.

Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.     

SUY NIỆM:

Có những người chẳng biết Chúa Giêsu là ai, nhưng họ đã sống đúng với những con đường của Chúa, thậm chí có những người đã chết vì Chúa; trong số đó phải kể đến các Thánh Anh Hài, là những trẻ thơ đã phải chết oan ức vì cuộc truy sát Hài Nhi Giêsu của những thế lực độc ác muốn bảo vệ quyền lợi của mình.

Từ đó cho ta một cái nhìn phổ quát về Hội thánh của Chúa Giêsu. Nó chẳng những là những người tin và tham gia vào Hội thánh đó, mà còn là những người “liên lụy” trong ơn cứu độ. Họ là những người thành tâm thiện chí để sống bác ái yêu thương, cộng tác với Giáo hội trong nhiều việc dù họ không ghi danh vào Giáo hội, và có cả những người phải hy sinh, bị bách hại vì liên đới với Hội thánh Chúa.

CẦU NGUYỆN

“Lạy Chúa, các thánh Anh Hài đã không dùng lời nói, nhưng dùng chính cái chết của mình mà tuyên xưng danh Chúa, xin cho chúng con biết lấy cả cuộc đời mà minh chứng niềm tin như chúng con vẫn tuyên xưng ngoài miệng”.

THỨ NĂM, NGÀY V TRONG TUẦN BÁT NHẬT

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 2, 22-35

Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa”, và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là “một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con”.

Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

“Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”.    

SUY NIỆM:

Đối với ông già Simêon, được bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, nghĩa là đụng chạm đến ơn cứu độ, là hạnh phúc lớn nhất cuộc đời ông. Ông đã chờ đợi điều này, đã dấn thân, đã sống trọn vẹn cho sứ mạng vì điều này.

Khi đạt được hạnh phúc lớn nhất, ông sợ nó mất đi nên đã xin Chúa: “Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.

Từ hình ảnh của ông cho chúng ta biết dấn thân cả cuộc đời cho những giá trị cao cả. Điều đó khiến chúng ta phải hy sinh, phải hao mòn, phải mất mát. Và như một xác quyết, giá trị quý giá nhất chính là ơn cứu độ của Chúa ban cho ta.

Kế đến phải bằng mọi giá để gìn giữ, bảo vệ những giá trị cao đẹp mà chúng ta dấn thân tìm kiếm, thậm chí phải hy sinh mạng sống mình. Ông già Simêon xin Chúa cho mình chết đi vì quá hạnh phúc, ông sợ những hạnh phúc khác lôi kéo khiến ông nao lòng.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, con nổ lực cả cuộc đời để làm gì? Con được gì sau cái chết này khi sự dữ đang lan tràn khắp nơi: bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, tranh giành, bất công…? Tất cả mọi thứ sẽ qua đi, chỉ còn tình yêu ở lại. Tình yêu trong Chúa, tình yêu với mọi người. Chính tình yêu đó sẽ lưu giữ cho con hạnh phúc trong vương quốc Tình Yêu.

THỨ SÁU, NGÀY VI TRONG TUẦN BÁT NHẬT: LỄ THÁNH GIA THẤT

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 2, 13-15. 19-23

Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người”. Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: “Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”.

Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.

Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: “Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết”. Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó. Được báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: “Người sẽ được gọi là Nadarêô”.

SUY NIỆM:

Gia đình Thánh Gia đã hiệp thông với Chúa và với nhau để vượt qua những khó khăn thử thách. Giuse đã nghe thiên thần báo mộng để mang “Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập”. Sau đó lại nghe lời của thiên thần để mang mẹ con Hài Nhi Giêsu về đất Israel…

Thiên Chúa không nói bằng lời của nhân loại, nhưng hoàn toàn bằng mộng báo. Nghĩa là Thánh Giuse phải có một đời sống chiêm niệm, hiệp thông với Chúa mới có thể nhận ra ý Ngài.

Đức Maria luôn luôn theo sự dàn xếp của thánh cả Giuse, vì Mẹ biết ngài là chủ gia đình. Đó là sự hiệp thông với nhau để hướng đến những giá trị tốt đẹp. Bỏ qua ý định riêng tư của mình để làm theo ý chung theo sự hướng dẫn của Chúa.

Gia đình hôm nay rất cần sự hiệp thông với Chúa và với nhau để xây dựng những giá trị tốt đẹp.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, gia đình Thánh Gia còn phải gặp rất nhiều khó khăn, nhưng nhờ hiệp thông với Chúa và với nhau mà họ đã vượt qua tất cả. Xin cho chúng con biết đón nhận những trái ý trong cuộc đời với sự cầu nguyện để tìm ý Chúa mà hành xử.

THỨ BẢY, NGÀY VII TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

LỜI CHÚA: Tin Mừng Ga 1, 1-18 

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”. Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác.

Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.   

SUY NIỆM:

“Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người.” Nhân loại mong chờ Đấng Mesia, vị cứu tinh nhân loại, nhưng khi Ngài đến, họ đã không nhận ra hoặc xua đuổi Ngài.

Không nhận ra bởi họ định hình một vị cứu tinh theo khuôn khổ, theo cái nhìn của họ. Xua đuổi vì họ cứ mong chờ một vị cứu tinh cao sang lộng lẫy, nên hình dáng nghèo hèn khốn khổ thì sẽ bị loại trừ…

Chung quy lại của ơn cứu độ là tình yêu của Thiên Chúa dành cho mọi người không phân biệt ai: “Phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa”. Tuy nhiên có những người nghĩ rằng ơn cứu độ chỉ dành cho những thành phần nào đó theo cái nhìn của họ.

Mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm ánh sáng. Suy cho kỹ thì chỉ nơi nào tối mới cần sáng, còn nơi đã sáng thì ánh sáng sẽ dư thừa. Vì thế ai tự cho mình “sáng” là đã xua đuổi “Ánh Sáng” ơn cứu độ, còn ai khiêm tốn nhìn nhận mình “tối” là mặc nhiên đang cần “Ánh Sáng”.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết mình còn tối tăm để mở rộng tâm hồn cho ánh sáng Chúa soi dọi vào, để từ đó con trở thành ánh sáng của Chúa dẫn lối cho nhiều người tiến về vùng Ánh Sáng thật. Ánh sáng nơi con chỉ có thể là tình yêu.

[Bài học] Sách Công vụ Tông đồ| Bài 25: Phaolô tại Xêdarê – Phần 2

1. Phaolô và tổng trấn Phéttô (25,1-12): Sau khi nhậm chức được ba ngày, tổng trấn Phéttô từ Xêdarê xuống Giêrusalem. Tại đây, ông gặp giới lãnh đạo Do thái và họ yêu cầu vị tổng trấn ban cho họ ân huệ là mang Phaolô về Giêrusalem để xét xử. Thật ra, họ lại muốn mai phục dọc đường để giết Phaolô. Tuy nhiên, nhờ sự khôn ngoan của tổng trấn Phéttô, Phaolô lại thoát khỏi âm mưu của người Do thái. Tám ngày sau, phiên tòa diễn ra ở Xêdarê. Người Do Thái lại tố cáo Phaolô, và Phaolô mạnh dạn bác bỏ những lời tố cáo của họ. Khi vị tổng trấn hỏi Phaolô rằng: ngài có muốn được xét xử ở Giêrusalem không? Phaolô muốn kháng cáo lên hoàng đế Rôma và tổng trấn Phéttô đã chấp nhận.

2. Phaolô trình diện vua Acríppa (25,13-27): Trong thời gian ấy, vua Acríppa và bà Bécnikê cũng đến Xêdarê. Tổng trấn mới đem chuyện ông Phaolô thuật lại cho họ nghe từ đầu đến cuối. Nghe những lời ấy xong, vua Acríppa muốn gặp Phaolô. Thế là Phaolô lại có dịp rao giảng về Đức Giêsu Kitô cho họ.

Bước 1: Làm dấu Thánh Giá

Bước 2: Lắng nghe Lời Chúa

Bước 3: Giải thích Lời Chúa

Bước 4: Cầu nguyện kết thúc

Hạt giống nảy mầm | Tuần 4 | Mùa Vọng | Năm A

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG

Mt 1,18-24

A. Hạt giống…

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Chúa Cứu Thế sắp sinh ra là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (Câu 23). Bài Tin Mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra : Thánh Giuse.

1. Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thế của Chúa Giêsu là : a/ Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước (Câu 20b : “Này ông Giuse, là con cháu Đavít” ; Câu 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ” : Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý) ; b/ Bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu (câu 20c “Đừng ngại đón Maria về” ; câu 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” ; câu 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.

2. Về ý định ban đầu của Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính”. Một giải thích rất đáng lưu ý là : Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính = không xâm phạm quyền lợi của người khác) ; sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính = thi hành ý Thiên Chúa).

3. Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở… Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận…

B. … nảy mầm.

1. Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” : Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây thập giá. Thập giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.

2. Giuse đã thay đổi kế hoạch của mình để theo được ý Chúa. Những nhận định và tính toán của ta, dù đầy thiện chí, nhiều khi lại không hợp với chương trình và ý định của Thiên Chúa. Người công chính là người biết bỏ ý riêng, biết thi hành ý Chúa, biết sống lời Fiat như Mẹ Maria, biết sống câu ‘Xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” như Chúa Giêsu. 

3. Với con mắt người đời, tình yêu của đôi nam nữ Giuse và Maria xem ra chỉ là chuyện bình thường. Nhưng với kế hoạch của Thiên Chúa, với sự quảng đại đáp trả ơn Chúa gọi, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã góp phần cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết dùng tình cảm và tình yêu của con để phục vụ nước Chúa. 

4. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như thiên thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. (Mt 1,24)

Tên thánh của tôi là Giuse. Tôi rất tự hào về điều đó và thường tự hỏi “Mình phải làm thế nào để trở nên giống thánh bổn mạng ?” Thánh Giuse đã làm như thiên thần dạy là đón nhận Đức Maria. Ngài chấp nhận cuộc sống âm thầm để phục vụ Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Còn tôi thì sao? Một lần, tôi nhờ mẹ giặt hộ một bộ quần áo để đi dự tiệc. Vì bận việc, mẹ tôi đã quên. Tôi cằn nhằn và bỏ luôn buổi tiệc…Ngay cả chuyện nhỏ như vậy mà tôi chưa sẵn sàng vui vẻ đón nhận thì kể gì đến những chuyện lớn lao.

Xin Thánh Giuse dạy con biết khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa cách trọn vẹn như Ngài. (Epphata) 

5. Một cha giảng đã nói với các gia trưởng trong một cuộc tĩnh tâm rằng : “Thánh Giuse đáng là mẫu gương cho các gia trưởng noi theo”. Một ông lên tiếng : “Hoàn cảnh của thánh Giuse rất khác hoàn cảnh của tôi : Ngài là một vị thánh, vợ Ngài không có tội lỗi nào, và con Ngài là Con Thiên Chúa. Vậy làm sao tôi bắt chước sống theo Ngài được ?” Cha giảng vặn lại : “Thế vợ ông có mang thai trước khi về với ông mà ông không biết bào thai ấy là con của ai không ? Và con ông có lạc mất khỏi gia đình ông suốt 3 ngày mà ông không biết nó đang ở đâu không ?” Và người gia trưởng ấy không phản đối nữa. (Mark Link, Vision 2000)

6. Sinh con thì dễ hơn là làm cho con coi mình là cha của nó. (lấy ý của ĐGH Gioan 23)

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần 4 | Mùa Vọng | Năm A   

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV MÙA VỌNG

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 1, 18-24

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. 

Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. 

Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.  

SUY NIỆM: 

Qua hình ảnh của Giuse, ta nhận ra người công chính là người luôn làm theo ý Chúa và sống tốt với mọi người.

Giuse trong mọi hoàn cảnh luôn để Chúa hướng dẫn, và dường như ông không có một ý kiến trái chiều nào. Nhìn theo kiểu người đời đó là một người nhu nhược, yếu thế, không có chính kiến… nhưng rõ ràng đối với đức tin ông là một người tuyệt hảo, vì đức tin chân chính là hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa.

Giuse chấp nhận chịu thiệt trong hôn ước với Maria. Ông sẵn sàng là người ra đi kèm theo tiếng xấu với bào thai của Đức Maria; ngược lại, Đức Maria được an toàn. Ông là người công chính khi dành những điều tốt đẹp cho người khác.

Mùa Vọng mời gọi ta không chỉ trông chờ Chúa đến, vì Chúa đã đến hơn 2000 năm rồi, nhưng nhắc nhở ta hãy sống công chính như Giuse, tức là luôn làm theo ý Chúa và sống tốt với mọi người.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, có nhiều điều con không hiểu, không thể chấp nhận, nhưng xin cho con biết đó là điều Chúa muốn, để con đón nhận bằng tất cả sự ngoan ngoãn của đời sống đức tin.

THỨ HAI – 19/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 1, 5-25

Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già. 

Xảy ra khi Dacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế,- ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương, -đang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ thiên thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Dacaria thấy vậy (thì) hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.

Nhưng thiên thần nói với ông rằng: “Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để hướng lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị”. 

Dacaria thưa với thiên thần rằng: “Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?” Thiên thần liền đáp: “Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành này. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng”.

Dân chúng đang trông đợi Dacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà.

Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: “Chúa đã làm cho tôi thế này, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời”. 

SUY NIỆM:

Để thực hiện công trình cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã dùng những việc lạ lùng: người già, son sẻ lại sinh con ; đã dùng những con người “hết đát”, già nua, bất lực…

Thế mới biết công việc của Thiên Chúa không như công việc của loài người, hành động của Thiên Chúa ngoài khả năng của nhân loại… và vì thế ơn cứu độ là cao cả, vượt lên trên mọi giá trị trần thế.

Mùa Vọng nhắc nhở ta sống đức tin vì Thiên Chúa đã hành động, chỉ những ai tin tưởng mới có thể đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con một lòng tin mạnh mẽ, vì như Dacaria còn phải nghi ngờ công việc của Thiên Chúa, huống chi con chỉ là kẻ thấp hèn.

THỨ BA: 20/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 1, 26-38

Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.

Nhưng Maria thưa với Thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và Thiên thần cáo biệt Bà. 

SUY NIỆM:

Ơn cứu độ được thực hiện với sự cộng tác của nhiều người.

Trước hết là Thiên thần Gabriel đã mau mắn, nhanh nhạy và thông truyền chính xác ý định của Thiên Chúa cho Đức Maria. Rõ ràng dù có những thiên thần phản bội, nhưng tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã quên đi ý riêng của mình và trung thành với Chúa.

Kế đến là Đức Maria, dù đã khấn nguyền với Chúa là “không biết đến người nam”, một sự khấn ước để thuộc trọn về Chúa, nhưng khi biết ý định của Chúa muốn sử dụng Mẹ, thì Mẹ cũng đã sẵn sàng. Như Thiên thần, Mẹ cũng phải từ bỏ cái tôi cá nhân, ý định riêng tư của mình để cộng tác với ơn cứu độ.

Trong thời gian chuẩn bị gần để mừng lễ Chúa Giáng Sinh, Giáo hội muốn chúng ta phải từ bỏ ý định riêng tư của mình để ý Chúa đi vào cuộc đời của chúng ta.

Từ bỏ ý riêng không phải dễ vì nó là cả một hệ tư tưởng đã ăn sâu vào trong con người chúng ta, khiến chúng ta nhìn và tiếp nhận mọi sự theo giác quan của mình; còn hơn thế nữa, bắt người khác cũng phải theo cái khung đó.

Chỉ từ bỏ y riêng khi ta có sự khiêm tốn để nhận thấy mình chẳng là gì, Thiên Chúa mới là Đấng tuyệt đối, và tha nhân cũng có cái hay riêng của mỗi người.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con biết bắt chước Thiên thần Gabriel và Mẹ Maria để mau mắn thi hành những gì Chúa muốn nơi chính cuộc đời của con.

THỨ TƯ: 21/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 1, 39-45 

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. 

SUY NIỆM:

Niềm vui của cuộc gặp gỡ hôm nay là nhờ thái độ của Mẹ trước lời mời gọi của Chúa. Mẹ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện. Và Mẹ đã vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui trong đời sống đức tin của Mẹ.

Xác quyết niềm tin vào Chúa và quy hướng cả cuộc đời của ta về Ngài để sống theo thánh ý Ngài chính là hạnh phúc cho ta.

Cất bước ra khỏi sự an toàn của mình để chia sẻ với người khác về mọi sự: vật chất, tinh thần, niềm tin chính là hạnh phúc cho người.

Đức tin và lên đường chính là điều chúng ta phải nhắc lại cho chính mình trong những ngày chuẩn bị gần đón Đấng Cứu Thế.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, tiếp cần với Lời Chúa nhiều hơn để thêm lòng tin vào Chúa. Ngược lại, để củng cố đức tin xin cho chúng con biết lên đường để cảm nhận Chúa đang ở khắp mọi nơi, nhất là nơi những người cùng khổ.

THỨ NĂM: 22/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 1, 46-56

Khi ấy, Maria nói rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!”

Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

SUY NIỆM:

Chính Mẹ đã cảm nhận về lòng thương xót của Chúa trong cuộc đời Mẹ. Lòng thương xót không chỉ là ơn tha thứ, vì Mẹ được gìn giữ không mắc tội tổ tông, và không vương tội lỗi trần gian để xứng đáng cho Ngôi Lời nhập thể; nhưng lòng thương xót còn là muốn dùng Mẹ để thực hiện những gì Chúa muốn.

Chúa sử dụng cuộc đời Mẹ, nên Mẹ vui, Mẹ nhảy mừng. Chúa sử dụng Mẹ vì Mẹ không bao giờ nghĩ rằng mình xứng đáng. Chính vì thế Mẹ không bao giờ vênh váo với người khác, hoặc lên mặt dạy đời, mà trong tất cả Mẹ đều thưa: Chúa thương tôi đó!

Vì Chúa thương xót Mẹ nên Mẹ biết chỉ có Chúa mới mang lại cho Mẹ niềm vui đích thực. Vì lẽ ấy sóng gió cuộc đời không phủ lấp được Mẹ vì Mẹ đâu bám vào ai ngoài Chúa, những lời thị phi đâu lung lay được Mẹ vì Mẹ đâu tin gì ngoài lời của Chúa…

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, con ngợi khen Chúa vì Chúa đã thương xót con. Xin cho con từ nay đừng đặt hy vọng và tìm kiếm niềm vui vào bất cứ điều gì, ngoài Chúa.

THỨ SÁU: 23/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 1, 57-66

Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. 

Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa.

Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”.    

SUY NIỆM:

Tên Gioan nghĩa là được Chúa thương. Quả thật Gioan chính là tình thương của Chúa dành cho 2 vợ chồng già son sẻ. Họ đã bị người đời khinh bỉ, chê cười vì tuyệt tự, nhưng nay họ sẽ vui mừng, tự hào vì có Gioan.

Gioan cũng chính là tình thương của Chúa dành cho bà con, xóm giềng vì từ nay dòng dõi họ sẽ có một người con trai đứng trong hàng ngôn sứ.

Gioan là tình thương của Chúa dành cho những người tội lỗi biết nghe lời ông mà sám hối ăn năn.

Cũng vậy, Gioan là tình thương cho những ai đón nhận Đấng Messia qua lời rao giảng của ông.

“Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào?” Cuộc đời của mỗi chúng ta cũng được mời gọi diễn tả tình thương của Chúa. Vậy hãy biết yêu thật nhiều để khuôn mặt của Thiên Chúa được rõ nét nơi cuộc đời của chúng ta.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, ngày Gioan chào đời mang đến niềm vui cho nhiều người, vì sứ điệp Chúa muốn khắc ghi nơi cuộc đời của Ngài là yêu thương. Xin cho cuộc đời của chúng con cũng mang đến niềm vui cho người khác.

THỨ BẢY: 24/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 1, 67-79 

Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta. 

“Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.  

SUY NIỆM:

Dacaria đã nói tiên tri về sứ mạng của Gioan “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên.” Sứ mạng của Gioan là loan báo một Thiên Chúa cứu độ, ơn cứu độ chính là sự tha thứ của Thiên Chúa.

Như vậy chuẩn bị cho niềm vui Giáng Sinh là chuẩn bị cho tâm hồn đón nhận ơn tha thứ, tẩy xóa những tội lỗi của con người. Thực sự ra ơn cứu độ đã đến và nhiều người đã lãnh nhận, đó là những người thiện tâm.

Phần chúng ta muốn đón nhận ơn cứu độ, đón nhận niềm vui Giáng Sinh, được ơn tha thứ thì phải có lòng thiện tâm. Sự thiện tâm ở đây là một tâm hồn luôn hướng về Chúa để sống theo đường lối của Ngài; mà đường lối của Chúa là yêu thương.

Một tâm hồn sân si, ganh ghét, hận thù… sẽ không thể nào đón nhận ơn cứu độ, đón nhận niềm vui Giáng Sinh, đón nhận ơn tha thứ từ nơi Chúa, vì nó còn đầy ắp những điều chưa thiện tâm.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, nhân loại chúng con đang “ở trong bóng tử thần” bằng nhiều cách khác nhau. Xin ơn cứu độ đến dẫn lối chúng con vào đường nẻo bình an.

[Bài học] Sách Công vụ Tông đồ| Bài 24: Phaolô tại Xêdarê – Phần 1

Bài học hôm nay gồm có các phần sau đây: 

1. Phaolô bị giải đến Xêdarê (23,23-35): Viên chỉ huy đã tập hợp một đội quân hùng hậu để áp giải Phaolô an toàn đến tổng trấn Phêlích. Đoạn đường áp giải được chia làm hai chặng. Chặng 1: từ Giêrusalem đến Antipátri. Đây là đoạn đường nguy hiểm và dễ bị người Do Thái phục kích, nên cần nhiều quân hộ tống áp giải. Chặng 2: từ Antipátri đến Xêdarê, đoạn đường này bằng phẳng và an toàn hơn. Vì thế, viên chỉ huy và quá một nửa đoàn quân trở về Giêrusalem. Đến Xêdarê, đoàn hộ tống giao Phaolô và bức thư của vị chỉ huy cho tổng trấn. Phaolô và đoàn hộ tống đến nơi bình an. Tổng trấn Phêlích tiếp Phaolô cách hững hờ và cho giam ông vào dinh Hêrôđê chờ ngày xét xử.

2. Phaolô và tổng trấn Phêlích (24,1-27): 5 ngày sau khi đến Xêdarê, tổng trấn Phêlích đem vụ án ra xét xử. Bên nguyên cáo gồm thượng tế Khannania, các kỳ mục và luật sư Téctulô; bên bị cáo chỉ có một mình Phaolô. Luật sư Téctulô tố cáo Phaolô 3 tội: (1) thứ ôn dịch và chuyên gây bạo loạn; (2) đầu xỏ phái Nadarét; (3) xúc phạm Đền thờ; ông tố cáo luôn vị chỉ huy Rôma ngăn cản họ xét xử Phaolô theo Lề Luật. Ở phần bị cáo biện hộ, Phaolô đã vạch trần sự cáo gian, ông nói thẳng vào vấn đề rao giảng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại. Sau đó, Phaolô đã bênh vị chỉ huy. Kết cục, tổng trấn đã cho ngưng phiên tòa chờ ngày tiếp tục xét xử. Ít ngày sau cuộc xét xử, tổng trấn muốn nghe Phaolô nói về Đức Giêsu. Khi Phaolô nói về đức công chính, sự tiết độ và cuộc phán xét mai sau, Phêlích đã khiếp sợ. Sau đó, Phaolô tiếp tục bị giam. Trong thời gian đó, Phêlích cũng mất chức tổng trấn.

Bước 1: Làm dấu Thánh Giá

Bước 2: Lắng nghe Lời Chúa

Bước 3: Giải thích Lời Chúa

Bước 4: Cầu nguyện kết thúc

Hạt giống nảy mầm | Tuần 3 | Mùa Vọng | Năm A

CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG

Mt 11,2-11

A. Hạt giống…

Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay nêu gương một người đã tích cực chờ đợi Chúa, đó là Gioan Tẩy Giả :

– Ông sống trong hoang địa với một lối sống giản dị và thanh đạm.

– Ông tích cực dọn đường cho Chúa bằng lời rao giảng kêu gọi sám hối.

– Ông nôn nóng mau được thấy ngày Chúa đến, nên đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu.

Chính vì thế, ông đã được Chúa Giêsu hết lời khen ngợi : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”. Tuy nhiên Ngài nói thêm là những người sống vào thời Tân Ước còn “cao trọng” – nghĩa là có phúc – hơn Gioan.

B. … nảy mầm.

1. Ngày xưa Đấng Cứu Độ cần có Gioan dọn đường, thì ngày nay cũng vẫn thế. Việc này ngày nay được gọi là “Tiền phúc âm hóa”. Việc “tiền phúc âm hóa” tạo những điều kiện thuận lợi cho mảnh đất, để khi hạt giống phúc âm gieo xuống thì mọc lên ngay. Vậy tôi sẽ làm công việc tiền phúc âm hóa này cho những ai ? Và làm bằng cách nào ?

2. Gioan Tẩy Giả đã tự dọn con đường lòng mình bằng cuộc sống trong sa mạc, nghĩa là trong một khung cảnh thinh lặng. Tôi cũng chỉ có thể gặp Chúa và nghe được tiếng gọi của Ngài nếu tôi biết đi vào “sa mạc” bằng tĩnh tâm, cầu nguyện và không để mình bị xáo trộn bởi những lo lắng sự đời.

3. Chẳng những tôi phải dọn đường cho Chúa đến với bản thân tôi, mà cũng phải dọn con đường cho Chúa đến với anh chị em tôi nữa. Tôi có quan tâm đến điều này không ? Và tôi đã làm được những gì rồi ? 

4. Khi trả lời cho Gioan biết Ngài có phải là Đấng Cứu Độ không, Chúa Giêsu đã đưa ra những việc cụ thể Ngài đã làm : “người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Ngày nay, người ta cũng chỉ có thể nhận ra Chúa của chúng ta là Đấng Cứu Độ qua những việc làm cứu nhân độ thế cụ thể và thiết thực của chúng ta.

Sống Lời Chúa mỗi ngày | Tuần 3 | Mùa Vọng | Năm A   

0

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA VỌNG – A

CHÚA NHẬT

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 11, 2-11

Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. 

Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: “Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: ‘Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con’. Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông”.

SUY NIỆM:

Chính Gioan còn phải phân vân về sứ mạng của Chúa Giêsu và của chính ông. Ông biết mình được sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nhưng tại sao ông lại bị bắt khi làm việc cho Thiên Chúa? Tại sao Đấng Messia lại để cho sự dữ diễn ra cho cả người làm việc cho Nước Trời?

Chúa Giêsu trả lời cho các môn đệ của Gioan hãy nhìn những gì đã xảy ra thì biết Ngài là ai. “người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.”

Ai làm được những điều đó nếu không phải là Đấng Messia? Và điều Chúa Giêsu nhắn nhủ Gioan là: “phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Một sự kiên trì cần thiết trong đời sống đức tin, đừng vội vàng kẻo vấp ngã.

Khi trông chờ Đấng Cứu Thế cũng là lúc sống đời sống đức tin. Đừng tìm kiếm những bình an giả tạo bên ngoài, nhưng hãy cảm nghiệm những hồng ân sâu thẳm mà Chúa ban trong cuộc sống hằng ngày.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì, nhẫn nại sống đức tin, dù có nhiều những phong ba thử thách, những bất trắc, cam go khi phải sống cho niềm tin của mình. Chúng con biết Chúa đã đến và sẽ đến.  

THỨ HAI

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 21, 23-27

Khi ấy Chúa Giêsu vào Đền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?” Chúa Giêsu trả lời: “Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. – Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?” Họ bàn tính với nhau rằng: “Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri”. Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không được biết”. Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó”.    

SUY NIỆM:

Rõ ràng dân chúng thời bấy giờ đều nhận ra phép rửa của Gioan là bởi trời, nghĩa là nhìn nhận Gioan có một sứ mạng siêu nhiên.

Điều quan trọng là sự cứng lòng của một số người, cụ thể là các thượng tế và kỳ lão trong dân, dẫu biết Gioan có một sứ mạng siêu nhiên, và lời rao giảng của ông có sức hấp dẫn nhưng họ vẫn không chịu sám hối theo lời mời gọi của Gioan, trong khi nhiều người đã tỏ lòng sám hối ăn năn bằng những việc cụ thể.

Ở đây không nói đến việc ép buộc người khác phải làm giống tập thể, nhưng nói đến việc biết mình sai mà không chịu sửa sai.

Từ chỗ không chịu sửa sai dẫn đến tội ác khác là muốn tiêu diệt người nói lên sự thật, cản trở hành động sai trái của họ.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, mùa Vọng hướng con đến sự bình an đích thực. Sự bình an chỉ có khi con biết nhìn ra sự thật nơi bản thân mình và dám chấp nhận sống theo sự thật đó. Xin cho con biết chân thành sửa đổi cuộc sống của mình để tìm về với Chúa là nguồn bình an đích thực cho con.

THỨ BA

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 21, 28-32 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!’ Nó thưa lại rằng: ‘Con không đi’. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: ‘Thưa cha, vâng, con đi’. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” Họ đáp: “Người con thứ nhất”. Chúa Giêsu bảo họ: “Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”.

SUY NIỆM:

Gioan đã rao giảng và nhiều người đã tin vào ông. Điều đáng nói những người tin vào lời rao giảng của Gioan là “những người thu thuế và gái điếm”; còn các thượng tế và kỳ lão trong dân lại không tin.

Được nên công chính, được cứu độ, được giải thoát có phải nhờ cái mác bên ngoài? Thưa không? Dù là ai, làm gì, như thế nào vẫn được nên công chính, được giải thoát, được cứu độ…, nghĩa là làm nên ý nghĩa cho cuộc đời mình nhờ biết hoán cải.

Những người thu thuế và gái điếm dù cái mác được gắn là sự xấu xa, tội lỗi… nhưng họ lại làm nên ý nghĩa cho cuộc đời của họ, ít là chính bản thân họ được bình an, hạnh phúc khi họ biết từ bỏ đường tội lỗi.

Các thượng tế và kỳ lão trong dân được gắn cái mác rất vinh dự, được nhiều người tôn trọng, thậm chí chiều chuộng… nhưng họ lại không tìm được ý nghĩa cho cuộc đời mình khi họ có những điều sai lỗi mà không biết hoán cải. Chính lương tâm của họ đã bị dằn vặt và họ mất bình an trong tâm hồn.

Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị đón Vua Hòa Bình. Hòa bình chỉ đến với những tâm hồn thiện tâm, nghĩa là những tâm hồn biết phân biệt điều tốt xấu và chọn làm điều tốt. Nếu có lỡ theo con đường lầm lạc, thì tâm hồn thiện tâm là tâm hồn biết quay trở lại với nẻo chính đường ngay.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, Gioan đã rao giảng và người ta đã nghe. Một số người nghe nhưng không thực hiện. Một số người nghe và thực hiện điều Gioan dạy, cụ thể là sám hối. Xin cho con biết sám hối thường xuyên để thực hiện việc hoán cải kịp thời. 

THỨ TƯ

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 7, 19-23

Khi ấy, Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Ngài là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Đấng nào khác?” Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: “Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: “Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”.

SUY NIỆM:

Chính Gioan cũng ý thức mình đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ông biết rõ sứ mạng của mình là gì; Và ông càng nhận rõ Đấng ông loan báo, dọn đường cho chính là Chúa Giêsu.

Thế nhưng cái nhìn về Đấng Cứu Thế của ông cũng bị ảnh hưởng bởi dân chúng thời bấy giờ. Đấng Cứu Thế theo kiểu vương quyền trần gian đẻ dẹp bỏ những bất công, loại trừ những gian ác, trừng phản quân phản nghịch… Những điều đó đang diễn ra nhan nhản trước mắt ông, dù ông đã hết mình rao giảng về Đấng Cứu Thế làm cho ông nghi ngờ về sứ mạng của Chúa Giêsu.

Sự nghi ngờ đó được đích thân ông sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu. Và câu trả lời chính là những việc làm của Ngài.

“Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng”

Đấng Cứu Thế không đến theo kiểu trần gian, nhưng là sức mạnh của sự giải thoát; và đường lối của Ngài chính là việc yêu thương, phục vụ.

Và Ngài đã nhắn với môn đệ của Gioan: “phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”. Nghĩa là đừng tìm kiếm một Đấng Cứu Thế khác, mà hãy nhìn vào cung cách của Ngài.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho con đừng thất vọng, nhưng những khi gặp đau khổ, bệnh tật, thất bại, chán nản… thì biết hướng đến hang đá Bêlem năm xưa để chiêm ngắm Chúa Hài Đồng đang mỉm cười trong lạnh giá, để con biết buông bỏ mọi sự mà tìm kiếm bình an đích thực trong tâm hồn, sự bình an chỉ có nơi những con người biết làm điều thiện.

THỨ NĂM

LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 7, 24-30

Khi những người Gioan sai đến đi rồi, Chúa Giêsu nói với đám đông về Gioan rằng: “Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc óng ả và đời sống xa hoa thì ở trong cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: ‘Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con’. Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông”.

Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho.  

SUY NIỆM:

Gioan đã sống trọn vẹn cho sứ mạng của mình đến mức Đức Giêsu khen ngợi ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan”.

Gioan được nhiều người hâm mộ, nên ông hoàn toàn có thể sống xa hoa, ăn sung mặc sướng như người ở trong cung điện của nhà vua…

Nhưng không, ông đã chọn lối sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc da thú… Sự khắc khổ đó là vì ông muốn đời sống mình có một kỷ luật để người ta có thể tin tưởng hơn về Đấng mà ông rao giảng.

Vì vậy trong đời sống, có những chuyện làm không sai, nhưng tôi không làm vì một giá trị tốt hơn. Có những thứ tôi có quyền hưởng, nhưng tôi nhường quyền đó cho người khác… Hy sinh cho một giá trị tốt hơn là hy sinh cao cả. Chịu đựng cho một lý tưởng cao vời là chịu đựng tuyệt vời.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho đừng chỉ rao giảng bằng lời, nhưng hãy rao giảng bằng chính đời sống của con. Xin cho con bắt chước Gioan để có kỷ luật bản thân, nghiêm khắc với chính mình, nhưng thân tình với kẻ khác. Sẵn sàng nhường quyền lợi và ưu tiên của mình để chứng minh cho Thiên Chúa là Tình yêu, đã hiến mình vì yêu.

THỨ SÁU

LỜI CHÚA: Tin Mừng Ga 5, 33-36

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: “Các ngươi đã sai người đến hỏi Gioan và ông đã làm chứng cho sự thật. Còn Ta, Ta không nại vào lời chứng của một người nào, nhưng Ta nói thế là để các ngươi được cứu thoát. Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó. Nhưng phần Ta, Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm, minh chứng rằng Cha đã sai Ta”.

SUY NIỆM:

Chúa Giêsu đang bị người Do Thái chống đối về việc Ngài chữa lành nguời bại liệt hơn 30 năm trong ngày Sabat, điều mà anh ta ao ước nhưng đành bất lực. Chính vì thế mà Ngài phải biện minh cho hành động của mình.  

Sâu xa của vấn đề, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng Thiên Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót. Ngài muốn giải thoát con người khỏi mọi sự dữ. Và Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha.

Do đó niềm hy vọng về Đấng Cứu Thế phải xuất phát bởi niềm tin rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và giải thoát, nhờ đó mà Kitô hữu sống tích cực hơn để được giải thoát và tránh thái độ ngăn cản người khác đón nhận ơn cứu độ do cái nhìn ích kỷ, hẹp hòi của mình.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho chúng con tin tưởng vào tình yêu thương của Chúa để chạy đến với Ngài bằng những hành động cụ thể trong mùa Vọng này.

THỨ BẢY – 17/12

LỜI CHÚA: Tin Mừng Mt 1, 1-17 

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara †bởi bà Thamar‡; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Đavít.

Đavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô.

Vậy, từ Abraham đến Đavít có tất cả mười bốn đời, từ Đavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.    

SUY NIỆM:

Bước vào giai đoạn hai của Mùa Vọng với tuần cửu nhật chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, Phụng vụ Lời Chúa của Giáo hội muốn giới thiệu cho chúng ta những khuôn mặt, những con người gần kề với Đấng Cứu Thế.

Hôm nay Mathêu trình bày gia phả của Đức Giêsu với nhiều những con người thuộc nhiều thành phần khác nhau, trong đó có cả những người tội lỗi, những kẻ thời cơ… nhưng cũng không thiếu những con người tốt bụng, những thành phần ưu tú…

Đấng Cứu Thế là thế đó, Ngài sẵn sàng đến với mọi người, mọi thành phần, và Ngài đã trở nên một phần với họ khi chấp nhận thuộc về gia phả của họ. Như vậy Ngài cứu độ từ bên trong con người chúng ta, dù chúng ta có như thế nào đi chẳng nữa, miễn là chấp nhận để cho Ngài ngự đến trong cuộc đời mình, như việc Ngài giáng sinh đến với nhận loại chúng ta.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, dù con có như thế nào, con vẫn tin Chúa thương con. Và con tin như thế với anh chị em con, những người thù nghịch, chống đối con, những người không cùng chung quan điểm, hay bất cứ một thành phần nào. Những con người con gặp gỡ chưa phổ quát bằng gia phả mà Chúa đã chấp nhận để sinh ra. Vì vậy, xin cho con biết cộng tác với ơn cứu độ của Chúa bằng chính cuộc đời của con, dù còn nhiều yếu đuối thấp hèn, khuyết điểm, tội lỗi, nhưng trên hết con còn có tình yêu.